1. Những nghi lễ chủ yếu từ khi sinh ra tới tuổi trưởng thành
1.1. Nghi lễ đầy tháng
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, bởi vậy, những nghi lễ liên quan tới trẻ em sau sinh có sự khác biệt về số lần tiến hành theo phong tục của mỗi dân tộc. Chẳng hạn như lễ 3 ngày sau sinh, 3 tháng 10 ngày sau sinh, lễ đặt tên gọi hồn…. Tuy nhiên, nghi lễ không thể thiếu được đối với trẻ em sau sinh đó là lễ đầy tháng và lễ đầy năm.
Lễ đầy tháng hay còn gọi là cúng đầy tháng là thời điểm theo quan niệm truyền thống của Việt Nam, đứa trẻ vừa được tròn một tháng sau sinh. Sự kiện này bao hàm nhiều ý nghĩa như: kết thúc giai đoạn khó khăn nhất không chỉ đối với người con mà còn với cả bà mẹ thời hậu sản (phải kiêng khem ở cữ); Đứa trẻ đã qua thời trứng nước tức tính được phần lớn những rủi ro trong năm đầu tiên của cuộc đời; Thông báo cho tổ tiên về việc ra đời và đầy tháng tuổi của một thành viên mới trong gia đình. Song, bao trùm lên hết thảy, nghi lễ đầy tháng chính là chứng nhận của xã hội về sự hiện hữu của một con người – một thành viên mới trong gia đình và xã hội để qua đó khẳng định vai trò, trách nhiệm của gia đình, xã hội đối với thành viên mới, thế hệ tương lai.
Việc tổ chức, trình tự tiến hành trong lễ đầy tháng của người Việt Nam rất đa dạng bởi còn phụ thuộc vào quy định theo phong tục tập quán của từng dân tộc. Điều này thể hiện ở lễ vật dâng cúng, người chủ trì hoặc thực hành nghi lễ, thời gian, cách thức từ khi bắt đầu đến kết thúc nghi lễ… Tuy nhiên, điểm chung của nghi lễ đầy tháng thường được tổ chức không bó hẹp trog phạm vi gia đình mà còn có sự tham gia của dòng họ, bạn bè, láng giềng thân cận, khách mời. Nội dung của những lời khấn nguyện (khi tiến hành nghi lễ) không gì khác hơn là mong muốn sự phù trợ từ các đấng bề trên (tổ tiên, bà Mụ, Đức ông, ma nhà…) cho đứa trẻ luôn khỏe mạnh, mau lớn, hiền ngoan… Tiếp sau là lời chúc mừng và tặng quà (hoặc tiền lì xì) của những người tham gia cho đứa trẻ và gia đình.
Ở Nhật Bản, đứa trẻ sau khi sinh được 30 (hoặc 31 ngày) 51 ngày, 101 ngày cũng được quan tâm thông qua các nghi lễ song dường như đây chỉ là những dấu mốc chứ không phải là sự kiện lớn như quan niệm của người Việt Nam. Chính vì lẽ đó, lễ đầy tháng thường chỉ tiến hành trong phạm vi gia đình hoặc có sự tham gia của ông bà ngoại đứa trẻ. Điểm nhấn của nghi lễ này là đứa trẻ được đưa đến đền thờ làm lễ cầu may mong muốn nhận được sự phù hộ cùng những điều tốt đẹp từ các thần.
1.2. Lễ đầy năm và lễ Shichigosan
Đối với người Việt Nam, nghi lễ đầy năm của đứa trẻ rất quan trọng được xem như mở đầu cả đời người, do đó, lễ đầy năm (còn gọi là cúng đầy năm, lễ thôi nôi, cúng thôi nôi, đám thôi nôi) nhiều khi được tổ chức lớn hơn cả lễ đầy tháng. Là nhân vật chính của ngày này, cho nên đứa trẻ được tắm sạch sẽ, mặc quần áo đẹp. Không chỉ vậy, ngoài việc cúng lễ cầu mong cho đứa trẻ hay ăn mau lớn, luôn khỏe mạnh, trước kia còn có nghi thức thử tài “chọn nghề tương lai” của trẻ. Nếu là bé trai thì bày các vật dụng như bút, giấy, tiền, cưa, búa, đục…với bé gái là kim chỉ, gương lược, dao kéo, rổ rá… Theo quan niệm dân gian, vật nào được trẻ chọn trước (cầm trước) thì đó chính là sự chọn lựa nghề nghiệp tương lai cho mình.
Sau nghi thức này, mọi người cùng chúc phúc, tặng quà cho trẻ và qua đó kết thúc nghi lễ đánh dấu một sự kiện lớn trong đời con người.
Khác với Việt Nam, ở Nhật Bản, người ta tổ chức nghi lễ chúc mừng khi trẻ lên 3, 5 và 7 tuổi. Người Nhật quan niệm số lẻ là số may mắn nên tiến hành nghi lễ khi bé gái lên 3 và 7 tuổi, bé trai lên 3 và 5 tuổi. Nghi lễ quan trọng này gọi là lễ Shichigosan diễn ra ngày 15 tháng 11 dành cho trẻ em lên 3, 5 và 7 tuổi với ý nghĩa ngày mừng bé khôn lớn hơn trong cuộc đời. Lễ Shichigosan thường được tổ chức tại gia đình với sự tham gia của những người trong họ hàng nội ngoại, bạn bè, hàng xóm thân cận. Mọi người mong muốn những điều tốt đẹp nhất đến với đứa trẻ thông qua lời chúc mừng và tặng quà. Những đứa trẻ đến độ tuổi đó sẽ được mặc trang phục truyền thống đẹp nhất để đến đền làm lễ với mong muốn cầu nguyện sức khỏe, gặp nhiều may mắn và ngày càng lớn khôn đến tuổi trưởng thành. Ngoài ý nghĩa như vậy, nghi thức đến đền làm lễ còn nhằm “thăm thần Giám hộ (vị thần cai quản vùng đất đó) và được làm lễ rửa tội (Oharai) để trừ điềm xấu”[1]
1.3. Nghi lễ trưởng thành
Trong các nghi lễ của chu kỳ đời người thì nghi lễ trưởng thành (hay lễ thành nhân, lễ thành đinh, lễ cấp sắc) thường được tiến hành khi con người trưởng thành về mặt giới tính. Nghi lễ này cũng được xem là cột mốc rất quan trọng đánh dấu bước ngoặt lớn trong cuộc đời từ khi “con non dại” để trở thành “người lớn”. Tuy nhiên, không có độ tuổi qui định thống nhất để tiến hành nghi lễ trưởng thành bởi còn phụ thuộc vào lịch sử, nền văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc.
Có thể nói, nghi lễ trưởng thành của Việt Nam dường như ít được chú ý nên không quá nổi bật trong các nghi lễ vòng đời người ở nhiều dân tộc hiện nay. Mặc dù là dân tộc đa số, song nghĩ lễ trưởng thành ở người Kinh (được ghi lại qua sử liệu) thường được tiến hành khá đơn giản khi gia đình có con trai đến tuổi trưởng thành (18 tuổi), chẳng hạn: làm một lễ nhỏ như “biện cơi trầu” trình làng là được. Trong khi đó, đối với một số dân tộc thiểu số như: dân tộc Dao, dân tộc Ê Đê… quan niệm nghi lễ này có ý nghĩa đặc biệt nên cách thức tiến hành rất đa dạng, phong phú tùy theo mỗi dân tộc, mỗi vùng với thời điểm, địa điểm khác nhau.
Trường hợp của dân tộc Dao, chỉ những người đã trải qua nghi lễ trưởng thành (còn gọi là lễ cấp sắc) mới được cộng đồng coi là người trưởng thành và sau đó mới được phép tiến hành những công việc liên quan đến phong tục tập quán Dao. Hơn nữa, chỉ khi được cấp sắc, người đàn ông mới có một vị thế nhất định trong gia đình, dòng họ và cộng đồng. Điểm đặc biệt của nghi lễ trưởng thành của dân tộc Dao đó là không qui định độ tuổi cụ thể, bởi lẽ để tiến hành được nghi lễ này phải chuẩn bị khá tốn kém về vật chất (lễ vật tế lễ, phục vụ ăn uống trong những ngày làm lễ). Do đó, nghi lễ trưởng thành có thể tiến hành bất kỳ ở độ tuổi nào miễn là người đó đáp ứng đầy đủ điều kiện vật chất, tinh thần của một lễ cấp sắc. Cũng bởi vậy, với những người chưa được làm lễ cấp sắc (dù đã nhiều tuổi) vẫn bị cộng đồng coi là chưa trưởng thành nên không có vị thế trong xã hội Dao.
Với dân tộc Ê Đê, nghi lễ trưởng thành lại mang tính chất cộng đồng cao bởi đây là nghi thức công nhận nam giới (thường từ 15 – 16 tuổi) trở thành thành viên chính thức của cộng đồng, có quyền lợi, nghĩa vụ của người trưởng thành và quyền được kết hôn.
Khác với Việt Nam, ở Nhật Bản, nghi lễ trưởng thành hay còn gọi lễ thành nhân (SeiJinshiki) rất được coi trọng và trở thành ngày quốc lễ tổ chức hàng năm. Không chỉ vậy, nghi lễ trưởng thành của Nhật Bản còn ghi rõ nguồn gốc, lịch sử hình thành, biến đổi phát triển đến ngày nay.
Về đại thể, lễ thành nhân của Nhật Bản có nguồn gốc từ một nghi thức cổ xưa gọi là Genpukusong thực chất là nghi lễ trưởng thành dành cho nam giới (không qui định rõ tuổi) của những gia đình quí tộc và đẳng cấp Samurai. Từ thời kỳ Nara (710 – 794) đến thời kỳ Heian (794 – 1192) lễ thành nhân được tổ chức cho nam giới (từ 13-16 tuổi), nữ giới (từ 12 – 14 tuổi). Đến thế kỷ 16,Genpuku đổi thành Genpukushiki và nghi lễ trưởng thành phổ biến tới mọi tầng lớp trong xã hội.Genpukushiki chính là tiền thân của Seijinshiki với nghi thức tiến hành khá thống nhất tới thời Cận đại (1868 – 1945). Từ năm 1948 – 1999, lễ thành nhân được tổ chức vào ngày 15 tháng 01 hàng năm đối với những người bước vào tuổi 20. Tuy nhiên, từ năm 2000, luật pháp qui định lễ thành nhân được tổ chức vào ngày thứ hai của tuần thứ 2 của tháng 1 hàng năm đối với những người đã đến tuổi 20.
Địa điểm tổ chức lễ thành nhân rất đa dạng (đền thờ, công viên, nhà hát, sân vận động, tòa thị chính…) và cách thức tổ chức của mỗi vùng cũng có sự khác biệt nhất định. Song, điểm chung của những người tham gia là vận trang phục truyền thống, nữ giới mặc Kimono đặc trưng của riêng ngày lễ này còn nam giới có thể mặc lễ phục Haori và Hakama hoặc bộ vest (lễ phục của phương Tây).
Sau lễ thành nhân, nam nữ đủ tuổi 20 được công nhận là đã trưởng thành và kể từ lúc đó, họ có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân theo qui định luật pháp, đồng thời phải chịu mọi trách nhiệm với hành vi của mình trước xã hội.
2. Nghi lễ hôn nhân
Từ xưa đến nay vẫn vậy, việc “trai lớn lấy vợ, gái lớn gả chồng” mãi là chuyện muôn thuở bởi đó là qui luật của cuộc sống. Hơn nữa, qua các nghi thức của hôn nhân không chỉ ghi dấu mốc son mà còn là ngày đại lễ hội của một đời người. Tuy nhiên, xung quanh nghi lễ hôn nhân cho thấy một bức tranh vô cùng đa dạng, phong phú về “sắc mầu” bởi phụ thuộc vào nhiều yếu tố như quốc gia, dân tộc, văn hóa, tôn giáo, xứ sở v.v… Chính bởi lẽ đó, nghi lễ hôn nhân của Việt Nam và Nhật Bản cũng không là ngoại lệ nhưng không thể phủ nhận rằng hôn nhân vẫn là việc hệ trọng trong chu kỳ đời người cho dù có sự biến đổi ít nhiều trước sự tác động của yếu tố thời đại đi chăng nữa. Có thể thấy rằng tại Việt Nam, nghi lễ hôn nhân thường trải qua các bước như dạm ngõ, lễ ăn hỏi, lễ đón dâu và hôn lễ, song ở mỗi nghi thức lại tiến hành khác nhau bởi do phong tục tập quán của mỗi dân tộc, địa phương qui định. Tuy nhiên, hôn lễ là một trong những nghi thức của hôn nhân để gia đình, dòng họ, cộng đồng thừa nhận sự kết hôn của đôi trai gái. Do đó, hôn lễ của mỗi dân tộc ở Việt Nam vừa có những yếu tố đặc trưng tộc người vừa mang những nét tương đồng với hôn lễ của các dân tộc anh em. Tính tương đồng thể hiện ở chỗ; Thứ nhất, nghi lễ hôn nhân nào cũng phải chọn ngày lành tháng tốt để đôi lứa kết duyên trăm năm bền vững, đồng thời kiêng tránh những điều xấu, gở, ảnh hưởng tới việc đại sự; Thứ hai, hôn lễ là hiện tượng xã hội phản ánh sự quan tâm, thừa nhận của các bậc sinh thành và của cộng đồng đối với việc kết hôn của đôi trai gái, bởi lẽ đây là sự kiện trọng đại của đời người. Tại Nhật Bản, quan niệm về nghi lễ hôn nhân tuy có một vài thay đổi (thậm chí bị coi là “lệch lạc”) nhưng hôn nhân vẫn được cho là một trong số ít sự kiện trọng đại trong cuộc đời con người. Cần biết rằng Nhật Bản không phải quốc gia đa dân tộc cho nên sự khác biệt trong nghi lễ hôn nhân chủ yếu là do sự “chi phối” của phong tục tập quán địa phương, vùng miền hơn là nhân tố tộc người. Tuy nhiên, nghi lễ hôn nhân theo mô thức truyền thống dường như vẫn tuân thủ theo các trình tự là: lễ ăn hỏi (Yuino) giúp chính thức hóa quan hệ của hai họ, nghi thức hôn lễ tại đền thờ, lễ cưới chính thức, lễ lại mặt (Satogaeri).
Điểm đặc biệt là ở Nhật Bản tồn tại hai hình thức hôn nhân chủ yếu là hôn nhân sắp đặt (do mai mối) và hôn nhân lựa chọn. Bên cạnh nghi lễ hôn nhân truyền thống theo nghi thức của Thần đạo (Shinto) còn có các hình thức kết hôn theo kiểu hiện đại (theo nghi thức Kito giáo, Phật giáo, thông thường).
3. Nghi lễ tang ma
Với bất kỳ ai, cái chết là điều không tránh khỏi nhưng ở mỗi quốc gia, dân tộc, quan niệm và cách thức tiến hành nghi lễ tang ma đều có sự khác biệt. Thật vậy, qua nghi thức tang ma của các dân tộc ở Việt Nam là minh chứng rõ nhất cho điều này. Điểm chung ở đây là quê hương luôn gắn bó mật thiết với cuộc đời của mỗi người, từng được coi là nơi “chôn nhau cắt rốn”. Từ khi sinh ra, lớn lên tham gia các hoạt động của xã hội, gia đình, tộc họ, xóm giềng, lễ hội, cưới xin v.v… song cùng với vòng quay của cuộc sống, người ta lần lượt đưa tiễn nhau về nơi chín suối. Theo quan niệm của người Việt Nam, nghĩa tử là nghĩa tận nên điều đó rất được chú trọng trong ứng xử cũng như nghi thức tiến hành tang lễ. Niềm thương tiếc và nỗi nhớ của mọi người, nhất là người thân đối với người đã khuất được thể hiện qua việc tổ chức tang lễ và thờ cúng theo qui định của luật pháp và phong tục tập quán của từng dân tộc.
Chính vì vậy, trình tự của các nghi lễ tang ma (từ khi phát tang đến khi mai táng kết thúc) đều phải tuân thủ những qui định tại nơi người chết sẽ ra đi vĩnh viễn. Và, trước khi có những thay đổi bởi yếu tố thời đại, hình thức mai táng của người Việt Nam hầu hết là thổ táng. Hơn nữa, song hành với hình thức mai táng này thì tục kiêng kỵ trong và sau tang lễ cũng rất đa dạng tùy thuộc vào văn hóa, tập quán của mỗi dân tộc, vùng miền. Tuy nhiên, mục đích lớn nhất của những kiêng kỵ không gì khác hơn là nhằm tránh được những “điềm xấu, gở”, thậm chí cả tai họa có thể đến với gia đình, người thân, con cháu về sau. Đây cũng là một trong những nguyên nhân lý giải vì sao người ta rất “lo ngại” nếu thực hiện sai, thiếu hoặc nhầm lẫn không đúng như trình tự của nghi lễ tang ma. Người ta quan niệm rằng các “sự cố” này cùng với tục kiêng kỵ nếu không thực hiện nghiêm cẩn, chẳng những bị cộng đồng chê bai mà còn gặp những điều không may trong cuộc sống.
Cũng như ở Việt Nam, người Nhật Bản coi nghi lễ tang ma có tính chất quan trọng trong mỗi cuộc đời con người. Tuy nhiên, nghi lễ tang ma của Nhật Bản không có sự khác biệt nhiều và “đa dạng” trong trình tự tiến hành tang lễ như của Việt Nam, có chăng chỉ là ở hình thức mai táng (thổ táng hay hỏa táng) cách thức tang lễ (ở tại nhà hay ở chùa). Ngoài ra, cũng có sự khác biệt bởi yếu tố vùng miền nhưng nhìn chung không quá lớn. Có thể nói, hầu hết tang lễ ở Nhật Bản đều tiến hành theo nghi thức Phật giáo nếu như không có yêu cầu đặc biệt về tôn giáo của người đã khuất. Đương nhiên, những kiêng kỵ xung quanh nghi lễ tang ma cũng được mọi người tuân thủ nhằm tránh sự không may cho tang chủ, gia đình, dòng tộc. Chính vì vậy, từ ngày mất đến ngày thứ 7, người trong gia đình phải tiến hành nghi lễ thắp hương, đốt đèn lại phần mộ người đã khuất. Ngày thứ 35 (kể từ ngày mai táng), người trong gia đình và dòng họ (có thể cả khách mời) tổ chức nghi lễ cúng ngày kỵ húy (Kichu) có nghĩa là tiếp tục tuân thủ những kiêng kỵ như tập quán qui định. Phải tới ngày thứ 49, gia đình có người đã khuất làm nghi lễ Kiakê để rồi sau đó không còn phải kiêng, kỵ húy nữa.
Điểm chung dễ nhận thấy nhất trong nghi lễ tang ma của Việt Nam và Nhật Bản biểu hiện ở tính cộng đồng mà ý nghĩa thực chất chính là mọi người chia sẻ sự mất mát tới thân nhân của người đã khuất. Qua đó, mong muốn người đã khuất được siêu thoát, đồng thời phù hộ cho những người đang sống sự bình yên và may mắn.
4. Sự biến đổi của các nghi lễ
Những nghi lễ chủ yếu trong chu kỳ đời người của Việt Nam và Nhật Bản có thể được coi là một phần không thể tách rời nền văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc. Song, trải qua quá trình lịch sử của mỗi quốc gia, những nghi lễ này cũng không phải bất biến mà luôn biến đổi cho phù hợp với nhân tố thời đại.
Lễ đầy tháng, lễ đầy năm (lễ thôi nôi) là những nghi lễ đã có từ rất lâu được lưu truyền qua nhiều thế hệ và là một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của người Việt Nam và Nhật Bản. Tuy nhiên, sự biến đổi của những nghi lễ này dễ nhận thấy hơn ở Việt Nam so với Nhật Bản. Không khó lý giải bởi lễ vật dùng trong lễ đầy tháng và thôi nôi của Việt Nam rất đa dạng và chi tiết chứ không đơn giản như của Nhật Bản. Chính vì vậy, sự biến đổi thường “diễn biến” theo hai hướng: Thứ nhất, đơn giản hóa các lễ vật dâng cúng bởi để biện lễ đầy đủ cũng khá cầu kỳ và nghi thức tiến hành; Thứ hai, thêm những đồ vật mới trong thành phần đồ lễ cúng kèm theo hình thức mới. Nhìn chung, thời đại mới gắn quá trình hội nhập, phát triển đã tác động mạnh mẽ tới các nghi lễ này khiến cho có thể làm mai một hoặc biến dạng theo cơ chế thị trường. Về nghi lễ trưởng thành cho thấy: Ở Việt Nam, nghi lễ này vẫn được duy trì ở những dân tộc thiểu số nhưng đã có sự biến đổi nhất định. Những biến đổi này chỉ tập trung vào các chi tiết có tính hình thức nhằm phù hợp với điều kiện môi trường kinh tế- xã hội đang thay đổi song nội dung và bản chất của nghi lễ vẫn được duy trì. Trong thời đại ngày nay, nghi lễ trưởng thành trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam có cơ hội lựa chọn trong việc thay đổi các thành tố, loại bỏ hay tiếp tục duy trì. Song, nhìn chung, kinh tế ngày càng phát triển, đời sống được nâng cao khiến cho nghi lễ trưởng thành có thêm điều kiện duy trì theo hướng bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc. Theo đó, nghi lễ trưởng thành không chỉ được giới thiệu rộng rãi trong công chúng mà còn được tổ chức, tiến hành như ngày hội của người dân.
Thời gian gần đây, nghi lễ trưởng thành diễn biến theo hướng tự phát, thường là do các trường tự tổ chức cho học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học vào dịp cuối năm với sự tham gia của bạn bè, thầy cô và phụ huynh. Trang phục trong lễ trưởng thành thường là đồng phục hoặc áo, mũ tốt nghiệp. Đây là dịp để các học sinh chia sẻ suy nghĩ, dự định tương lai, đồng thời bày tỏ lòng biết ơn tới thầy cô và cha mẹ khi bước vào tuổi trưởng thành.
Những biến đổi trong nghi lễ thành nhân của Nhật Bản biểu hiện rõ nhất ở hai khía cạnh đó là: độ tuổi qui định của người tham gia và trang phục trong nghi lễ.
Trước đây, đối tượng được dự lễ thành nhân là người tròn 20 tuổi tính từ ngày kế tiếp của lễ thành nhân năm trước đó đến ngày lễ thành nhân của năm hiện hành. Tuy nhiên, thời gian gần đây, cách tính tuổi đã thay đổi mà theo đó những người tròn 20 tuổi từ ngày 2 tháng 4 năm trước đó đến ngày 01 tháng 4 của năm hiện hành. Không chỉ vậy, đối tượng tham gia lễ thành nhân còn được mở rộng với người nước ngoài (đủ 20 tuổi) nếu như có đăng ký lưu trú tại nơi tổ chức nghi lễ (sẽ nhận được giấy mời từ chính quyền sở tại).
Trước kia, bộ Kimono của nữ giới trong nghi lễ thành nhân thường do bố mẹ mua tặng hoặc thừa hưởng những bộ trước đó của gia đình. Tuy nhiên, một bộ trang phục truyền thống rất đắt nên người tham gia thường mượn từ người khác hoặc thuê hơn là mua riêng cho dịp này. Ngày nay, nam giới cũng vậy, thay vì vận lễ phục truyền thống, đa số mặc lễ phục của phương Tây.
Trong nghi lễ hôn nhân của Việt nam cho thấy, phần lớn đều biến đổi theo hướng phù hợp với cuộc sống hiện nay, những yếu tố như một số kiêng kỵ, tảo hôn, tổ chức hôn lễ rườm rà đều được khắc phục dần.
Tại Nhật Bản, thời gian gần đây, nghi lễ hôn nhân theo phong cách phương Tây khả phổ biến với hôn lễ thường được tổ chức ở nhà thờ. Trước kia, hôn lễ được tổ chức tại các đền thờ thì ngày nay khách sạn cũng là nơi nhiều người chọn và tiến hành theo nghi lễ Thần đạo. Điểm đáng lưu ý là xuất hiện loại hình dịch vụ cho thuê người tới dự hôn lễ có xu hướng tăng lên. Như vậy, người dự nghi lễ hôn nhân truyền thống xưa kia nhiều khi được thay bằng những vị khách đóng làm bạn bè, thành viên gia đình và đồng nghiệp.
Khi xem xét các yếu tố biến đổi trong nghi lễ tang ma của Việt Nam có thể nhận thấy dường như chỉ biến đổi về các thành tố liên quan tới sự phát triển kinh tế – xã hội còn bản chất vẫn được duy trì một cách bền vững. Bên cạnh đó, hình thức mai táng cũng biến đổi với sự xuất hiện của hỏa táng trong những năm gần đây. Song, nhìn chung, các yếu tố biến đổi khác đều diễn ra theo chiều hướng đơn giản hóa phù hợp với cuộc sống xã hội hiện đại. Một trong những nguyên nhân quan trọng của những biến đổi này là do nhận thức của người dân được nâng cao cùng với quá trình giao lưu, đặc biệt là sự tác động của các chính sách, vận động xây dựng nếp sống văn minh.
Trong khi đó, ở Nhật Bản nghi lễ hỏa táng dường như thay đổi cho nghi lễ thổ táng và cùng với đó chi phí dịch vụ mai táng, thậm chí thuê người tham dự phúng điếu ngày càng tăng nhanh. Chính những biến đổi như vậy trong nghi lễ tang ma tạo nên gánh nặng tài chính đối với nhiều gia đình hiện nay./.