Tả Ao Tiên Sinh左 幼 先 生 地 理
Tả Ao tiên sinh là người Việt Nam. Một người nổi tiếng như vậy mà không biết thực họ tên là gì. Sách Tang thương ngẫu lục đã phải than rằng: “Chao ôi! Phương thuật của ông kể cũng rất lạ, vậy mà họ tên không truyền lại, tiếc thay! (Có thuyết bảo ông họ Hoàng, tên Chỉ”.
Cái tên Tả Ao không phải là tên thật của ông , mà là tên làng quê của ông, được ông lấy làm tên hiệu và gắn với tác phẩm của mình. Cũng tương truyền, tên ông được người xưa lấy tên làng, nơi ông sinh ra để gọi, mà không gọi tên thật. Tên thật của ông thì không rõ ràng. Bách khoa toàn thư Việt Nam viết rằng: Tả Ao, trong sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, có tên là Hoàng Chiêm hay Hoàng Chỉ. Còn trong dân gian, xuất phát từ quê hương ông, lưu truyền tên gọi thật là Vũ Đức Huyền. Cũng có nguồn nói rằng ông có tên là Nguyễn Đức Huyền. Tả Ao sinh vào khoảng năm Nhâm Tuất (1442), sống thời Lê sơ (Lê Thánh Tông , Lê Hiến Tông và Lê Uy Mục, tức là khoảng những năm 1442-1509). Có tài liệu cho rằng Tả Ao sinh sống trong khoảng đời vua Lê Hy Tông (1676-1704).
Các sử gia thời Lê Nguyễn đều không chép về ông nên cuộc đời ông chỉ được chép tản mát trong một số truyện, sách địa lý phong thủy thời nhà Nguyễn và sau này. Sách Hán Nôm được cho là do Tả Ao truyền lại gồm: Tả Ao chân truyền di thư (左 幼 真 傳 遺 書), Tả Ao chân truyền tập (左 幼 真 傳 集), Tả Ao chân truyền địa lý (5 tập-左 幼 真 傳 地 理), Tả Ao tiên sinh bí truyền gia bảo trân tàng (左 幼 先 生 祕 傳 家 寶 珍 藏), Tả Ao tiên sinh địa lý (左 幼 先 生 地 理), Tả Ao xã tiên sư thư truyền bí mật các lục (左 幼 社 先 師 書 傳 祕 宓各 局). Các tác phẩm này hiện lưu trữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Tuy nhiên Viện Hán Nôm cũng chú thích rằng:Tả Ao là tên hiệu của Hoàng Chiêm.
Ngoài ra, có các sách Địa lý phong thủy Tả Ao và Địa lý Tả Ao chính tông của tác giả Vương Thị Nhị Mười; Nghiên cứu Phong thủy và Phong thủy Việt Nam của Ngô Nguyên Phi … đều nói sơ lược về Tả Ao.
Các sách vở cũng như truyền thuyết đều coi ông là Thánh Địa lý Tả Ao, trạng Tả Ao, là thuỷ tổ khai môn, đệ nhất về địa lý phong thuỷ Việt Nam. Giỏi địa lý phong thủy như Cao Biền của Trung Quốc. Người đời xưa còn truyền lại bài thơ ca ngợi ông.
Ngày nay ở Việt Nam vẫn còn nhiều truyền thuyết, giai thoại được sách vở ghi lại, truyền miệng trong dân gian như việc Tả Ao, Tả Ao và Cao Biền thi thố tài năng (như Tả Ao phá trấn yểm của Cao Biền trên núi Tản Viên ở Hà Nội, núi Hàm Rồng ở Thanh Hóa,…), các truyền thuyết, giai thoại Tả Ao tìm nơi đất tốt để đặt đình chùa, đền miếu, mồ mả, nhà cửa; giúp dân nghèo, trị kẻ gian ác.
Tương truyền làng này có tục nọ, nghề kia là do Tả Ao chọn đất, hướng đình; họ này phát danh khoa bảng, họ kia phát công hầu khanh tướng là do Tả Ao tìm long mạch, huyệt đạo đặt mồ mả. Có một truyền thuyết còn lưu truyền đến ngày nay tại thôn Nam Trì xã Đặng Lễ huyện Ân Thi tỉnh Hưng Yên (nơi có đền thờ Tả Ao): Truyền tích gắn liền với ngôi đền thờ Tả Ao làng Nam Trì còn lưu truyền đến ngày nay là thời kỳ Tả Ao ở khu vực Hưng Yên một thời gian. Tả Ao về huyện Thiên Thi (tên cũ của Ân Thi) đã cắm đất, chọn ngày xây đình chùa, đặt mồ mả để cho hai làng Thổ Hoàng (nay thuộc thị trấn Ân Thi) và Hới (tức làng Hải Triều, trước thuộc huyện Tiên Lữ, nay thuộc Hưng Yên) phát về đường khoa cử, giàu có nên lưu truyền trong dân gian câu ngạn ngữ Nhất Thi nhì Hới.
Tại Nam Trì, Tả Ao đã giúp dân làng lập lại làng, chuyển đền, chùa và tìm đất đặt mộ phần cho họ Đinh tại gò Tam Thai vượng về võ tướng. Đến năm Giáp Thìn niên hiệu Quảng Hòa thứ 4 (1544) đời Mạc Phúc Hải, người họ Đinh làng Nam Trì là Đinh Tú đỗ Đệ tam giáp Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân và được bổ nhiệm làm quan Hiến Sát xứ Hải Dương, được phong tước Phù Nham bá. Hậu duệ của Đinh Tú (lăng mộ tại Nam Trì), chuyển sang sống ở làng Hàm Giang (Hàn Giang) huyện Cẩm Giàng, là Đinh Văn Tả – một danh tướng thời Lê-Trịnh.
———————————————-
Tả Ao Tiên Sinh Bí Truyền
Ở tỉnh Đoài có một gã trọc phú thích công danh, chỉ ước cho hai con mình được đỗ đạt hầu vênh vang với thiên hạ.Nhân dịp Tả Ao ghé qua tỉnh, nhà trọc phú bèn túm lấy năn nỉ ông, đặt giúp cho một ngôi mộ làm sao cho hai đứa con được đỗ bảng nhãn, thám hoa rồi được bổ làm quan.Tả Ao nói :- Nếu ông thực lòng muốn thế thì tôi sẽ giúp, nhưng tôi xin nói thật, để thỏa lòng việc này cũng phải tốn kém lắm!- Tốn kém như thế nào xin ông cứ cho biết, tôi sẽ cố gắng lo liệu – gã trọc phú nói.- Chí ít cũng phải 500 quan tiền. Ông biết đấy, đoạt được bảng nhãn, thám hoa, đâu phải chuyện chơi !Gã trọc phú liền gãi đầu :- Thưa ông, những 500 quan một ngôi mộ… chẳng giấu gì ông, tôi đang gặp cơn đen vận túng, chi những 500 quan một lúc, cũng khá nặng. Xin ông nới tay cho thì tôi cảm ơn lắm!- Thế chí ít ông chi được bao nhiêu quan tiền ?- Chừng 200 quan có được không ? Xin ông ra ơn làm phúc, sau này như ý tôi sẽ hậu tạ thêm !- 200 quan thì sao đủ ? Nào phải phân kim, xem hướng long mạch, định huyệt, rồi cúng tế cho ngũ phương, ngũ thổ long mạch thần linh, nào Trạch chúa, Sơn hà hải ngạn chi thần, nào đương niên đương canh mệnh vị thần quân, nào thành hoàng bản cảnh đại vương liệt vị ! Những ngần ấy thứ sao đủ sắm lễ…- Thôi được ! Ông đã có lòng giúp thì tôi cũng vui lòng dấn thêm, ta quyết với nhau 300 quan tiền nhé ! Xin ông bắt tay vào việc ngay cho !- Thôi được ! Tôi nể lời ông lắm vì muốn tạo phúc cho con cái.Tả Ao sau khi nhận tiền xong, sai người đi mua một chiếc tiểu sành. Còn bao nhiêu tiền đem cho những người nghèo khó hết.Hôm sau, dưới sự chỉ dẫn của Tả Ao, gã trọc phú và đám gia nhân bốc ngôi mộ tứ đại chôn vào ngôi huyệt mới. Rồi Tả Ao giao cho gã trọc phú một ống tre, trong đựng một tờ “phép”, dặn phải đúng một năm sau mới được mở ra xem. Nếu táy máy mà giở ra đọc trước, ngôi mộ sẽ hỏng mất thì đừng trách ông.Chưa được một năm, bỗng nhà trọc phú gặp liên tiếp nhiều tai họa, gia sản bị cướp bóc , lại bị thưa kiện, rồi bệnh hoạn. Hai thằng con trai thì đổ đốn bỏ học, đi chơi bời lêu lổng thêm tính nghiện hút. Gia đình lâm vào cảnh cùng quẫn, cả nhà phải xoay ra làm nghề mổ heo đem ra chợ bán kiếm miếng ăn. Mấy cha con hóa thành đồ tể.Đúng ngày Tả Ao dặn, gã trọc phú tán gia bại sản mới giở ống tre ra xem, thì thấy có một mảnh giấy trong đó viết mấy câu sau:Thiếu tiền 3 quan
Bị giảm 3 phầnBút hóa ra cây xiên (thịt)Nghiên hóa ra thớtBảng nhãn thám hoaHóa ra đồ tể !Đọc xong tờ giấy, cả nhà mới ngã ngửa người ra. Thì ra lúc giao tiền cho Tả Ao, gã trọc phú đã cố tình đếm thiếu 3 quan ! Gã có ngờ đâu hành vi ấy đã làm Tả Ao giận và cả nhà phải lãnh hậu quả quá thê thảm đến như thế !
oOo
Ở một làng có một anh chàng láu cá thượng hạng nhưng thông minh và hiếu học. Hoàn cảnh anh ta thật đáng thương, có người chị gái góa bụa có con thơ, vẫn phải đầu tắt mặt tối nuôi em ăn học. Hai chị em bữa đói bữa no.Anh chàng cảm thấy vô cùng phẫn chí.Bỗng một hôm anh ta nghe tiếng thầy Tả Ao đi qua làng, bèn liều mình đến lạy ông thương xót hoàn cảnh của hai chị em mà gia ân làm phúc. Tả Ao thấy anh ta mặt mày khôi ngô, lại tỏ ra con người có chí tiến thủ, bèn nhận lời.Sau khi làm bữa cơm đãi thầy, người chị sụt sùi kể:- Bẩm cụ chẳng may cho hai chị em cháu, cha mẹ đều mất sớm. Em cháu đã cố theo nghiệp bút nghiên, mà không hiểu sao đi thi mấy lần đều trượt. Nay chị em cháu trông cậy vào cụ, xin cụ rộng lòng thương!Tả Ao mới hỏi:- Thế mộ cụ thân sinh của chị đặt ở đâu ?Người chị nghe hỏi, càng nức nở khóc rằng :- Thưa cụ, cha mẹ chúng cháu mất từ khi chúng cháu còn quá nhỏ, nên đến nay không còn biết mộ đặt ở chỗ nào nữa !Tả Ao suy nghĩ rồi bảo :- Thôi, cũng không can hệ gì!Đoạn ông vừa uống rượu vừa chú ý nhìn ra ngoài sân. Chợt phát hiện có một luồng khí trắng từ dưới đất bốc lên, đích thị đó là khí long mạch.Tả Ao liền nghĩ đến phép “táng sống”, một trong những phép vi diệu nhất của môn địa lý phong thủy.Ông sai hai chị em đào một cái hố ở ngay địa điểm có luồng khí bốc lên, sâu hơn hai thước. Sau đó bảo chàng trai đứng xuống hố, và dặn hễ thấy nóng tới đâu thì phải báo cho ông biết tới đấy.Đoạn Tả Ao đứng ở một chỗ khác, dùng chân dậm lên long mạch, miệng khấn : Bản xứ thổ địa long mạch thần linh, phóng hậu khí vào anh học trò thi cử lận đận. Quả nhiên anh học trò bắt đầu thấy nóng ran từ dưới bàn chân nóng lên đầu gối rồi lên đùi. Anh ta nghĩ rằng chắc càng nóng nhiều và càng lên cao trên mình thì càng tốt. Vì vậy anh ta cố sức chịu nóng. Tả Ao liền hỏi:- Nóng đến đâu rồi?Anh học trò thấy đã nóng tới đùi, nhưng nói dối rằng :- Thưa cụ, tới bắp chân rồi ạ!Lát sau Tả Ao lại hỏi:- Nóng tới đâu rồi?- Thưa, tới đùi rồi ạ!Tả Ao dậm mạnh chân hơn rồi lại hỏi:- Nóng tới đâu rồi?Thực ra nóng đã tới vai, nhưng anh học trò láu cá lại bảo :- Thưa, tới bụng rồi ạ!Tả Ao lấy làm lạ, tại sao lần này hậu khí lại lên chậm như thế ? Ông lập tức chạy đến chỗ chàng trai, sờ vào người thì thấy nóng đã tới vai. Ông bực lắm quát :- Tại sao đã nóng tới vai mà anh lại bảo mới nóng đến bụng ? Anh nói dối thế này rồi sẽ gặp đại họa. Tôi bảo trước cho anh biết, sau này anh tuy được làm quan nhưng sẽ phải chết bất đắc kỳ tử.Nói xong, Tả Ao vào khoác tay nải đi luôn một mạch. Vừa đi ông vừa hối hận, rằng đã già trên đầu hai thứ tóc còn bị một thằng con nít́ lừa. Giá ông không nhanh trí chạy lại sờ xem thì chắc anh chàng láu cá sẽ chờ nóng đến đầu, ắt sẽ được làm vương.Hiệu quả của sự “táng sống” này thật là mầu nhiệm. Từ hôm đó, anh chàng học một biết mười, chẳng bao lâu chiếm được bảng vàng rồi được bổ làm quan đến chức nhất phẩm. Nhưng về sau trong nước xảy ra loạn lạc, vua sai anh ta cầm quân đi đánh, và bị trúng tên chết liền tại trận.
oOo
Một hôm Tả Ao đang đi bị lỡ độ đường, ông phải vào một làng xin ngủ đỡ qua đêm.Tả Ao đi đã nhiều nơi nhưng không thấy nơi đâu buồn tẻ như cái làng này. Tất cả đàn bà trong làng đều tất bật lam lũ, gồng gánh suốt từ mờ đất cho đến lúc gà lên chuồng vẫn chưa ngơi tay. Họ phải làm hàng xáo (bán gạo thóc), nào đong gạo, phơi phóng, sàng sẩy, phân loại gạo nào ra thứ gạo ấy rồi gánh ra chợ đua tài buôn chín bán mười, lấy tiền nuôi chồng nuôi con. Trong khi các ông chồng lại quanh năm không mó tay vào một công việc gì. Suốt ngày rủ nhau hết rượu chè hút xách, lại cờ bạc thâu đêm suốt sáng.Tuy làng này đối với ông không có họ hàng gì, nhưng không hiểu sao Tả Ao vẫn không thể nào nhẫn tâm mà bước đi tiếp. Ông nghĩ phải tìm cách kiếm cho bọn đàn ông trong làng một nghề ngỗng gì đó cho họ làm.Sáng hôm sau, ông ra quán nước đầu làng ngồi uống nước, gặp ngay vị tiên chỉ. Sau câu chào hỏi làm quen, Tả Ao nói :- Bẩm cụ, tôi là thầy địa lý, hôm nay rảnh rỗi đi xem phong thủy vùng ta hung cát thế nào…Ông tiên chỉ mừng rỡ kêu :- Ối trời đất ơi ! Thì ra cụ là thánh địa Tả Ao đấy à !? Lạy thánh mớ bái, tôi thật là được văn kỳ thanh mà bất kiến kỳ hình ! Thưa cụ, xin mời cụ vào trong đình để các vị bản chức trong làng được yết kiến thánh nhan của cụ và xin cho mấy lời chỉ bảo, xem cái lẽ hung kiết của làng ra sao ? Sau nhờ bảo ban cho chúng tôi một lời.Trước sự niềm nở của ông tiên chỉ, Tả Ao bằng lòng theo ông ta vào trong đình. Ông được các vị chức sắc trong làng thết đãi khá tươm tất. Sáng hôm sau tất cả hương chức cùng nhau dẫn thầy đi xem phong thủy. Nhân tiện, Tả Ao hỏi xem trong làng này có nghề gì phát đạt nhất ?Cụ tiên chỉ đáp :- Ấy thưa cụ, trong làng này độc nhất có nhà tôi làm nghề làm cối xay đã lâu. Cái nghề tuy kiếm được đồng tiền bát gạo, nhưng phải cái lao lực chứ không được nhàn hạ. Vì vậy mà bao nhiêu tráng đinh trong làng quen dài lưng chẳng ai chịu theo nghề ! Tôi cũng rất lấy làm tiếc !Tả Ao nghe xong vừa đi vừa nghĩ, rồi ông lẩm bẩm : “Không chịu theo, lười lao động hả ? Rồi ta cho phải theo, phải làm tất !”Chợt Tả Ao phát hiện ra một gò đất ở cuối làng, cho rằng có thể làm nên cơ sự ở cái gò đất này.Ông bảo với vị tiên chỉ :- Cái gò này án ngữ ở đây không lợi cho làng ta mấy. Nó cản trở cả phần đinh (sinh con sinh cháu) lẫn phần phú (tiền tài). Vậy phải được cải đổi đi một phần, tất sẽ có lợi.Các hương chức đều nhất trí :- Cụ dạy thế nào chúng tôi xin thi hành như thế. Được như lời cụ thì thật phúc cho làng quá.Ngay lập tức các tuần đinh được điều động mang cuốc xẻng ra bạt hai dẻo đất phía tả và phía hữu của gò đất, như thể cắt bớt cánh của con chim ưng. Gò đất chỉ còn lại một ụ tròn, hai bên có hai cái tai như tai cối xay gạo.Thấy lạ một vị kỳ mục lên tiếng thắc mắc hỏi :- Thưa cụ tôi xin hỏi, cứ như con mắt tôi nhìn thì gò đất này bây giờ trông sao mà giống cái cối xay gạo đến thế ?Tả Ao cười:- Thưa cụ, sách địa lý đã dạy : “Địa lý bất ngoại địa hình” (địa lý không ngoài hình thể đất đai). Nên sau này về hậu sự, các cụ sẽ thấy sách dạy không sai.Sau khi cải đổi hình thể gò đất xong, Tả Ao cáo bận xách túi đi ngay. Các hương chức biếu ông tiền, ông cũng nhất định từ chối.Quả nhiên mấy tháng sau, tình hình trong làng khác hẳn. Các bà vợ đều mang thai hết một loạt. Rõ ràng làng đã phát về “đinh”, nhưng đồng thời vì bận con mọn nên không ai đi bán hàng xáo nữa.Các ông chồng hết còn cơ hội bám váy vợ để hưởng thụ an nhàn, nên cực chẳng đã phải tính cách đi kiếm sống. Ông tiên chỉ cho gọi họ sang mở lò đóng cối, không một ai chê bai gì nữa. Tình trạng rượu chè cờ bạc của cánh đàn ông hầu như tuyệt hẳn. Mà cái nghề làm cối xay này rõ ràng là kiếm ăn được, cối xay làm ra không kịp để bán. Các lái buôn từ các tỉnh tín nhiệm thứ cối gỗ mít thượng hạng của làng, đã ùn ùn kéo đến mua cối về bán.Tất cả mọi người ngẫm lại lời của Tả Ao nói ngày trước mà bái phục. Rõ ràng “địa lý bất ngoại địa hình” là cuối làng có một gò đất có hình cối xay, và làng thì lại phát ề nghề làm cối xay, nổi danh khắp thiên hạ!
CÁI CHẾT CỦA TẢ AO
Tục ngữ có câu “hàng săng chết bó chiếu” (người làm áo quan chết bó chiếu). Mang câu ấy luận vào Tả Ao thấy rất đúng.Tất cả mọi người đều biết, suốt một đời Tả Ao đã tìm đất đặt mộ cho không biết bao nhiêu người, bao nhiêu làng xã. Và nhờ có tài siêu việt của bậc thánh nhân phong thủy nơi ông, mà những làng, những người, những dòng họ đã phát đạt, thậm chí sau đó còn truyền tử di tôn cho đến mấy đời con cháu.Cũng vì quá mải mê giúp người, giúp đời, mà Tả Ao bình sinh lấy sự đi chu du giúp thiên hạ là chính, ít khi ở nhà. Chính vì vậy mà cho đến lúc tuổi già, Tả Ao vẫn không rảnh rang được lúc nào để nghĩ tới việc “hậu sự” cho con cháu của ông.Là thầy địa lý bậc nhất trong thiên hạ mà ông… quên việc chọn cho mình một ngôi đất để sau này con cái táng ông vào đấy, được phát phúc về sau.Mãi đến khi nhận thấy mình sắp sửa về chầu tiên tổ, ông mới gọi con cháu đến bảo, hãy khiêng ông đến ngay một nơi có miếng đất hình “nhất khuyển trục quần dương” (một con chó đang đuổi một đàn dê), mà ông chợt nhớ ra đã có lần để ý đến.Thế nhưng con cháu khiêng ông mới đi được một đoạn đường thì ông đã thở hắt ra. Biết không kịp đến chỗ đất kia, mà có dặn thì con cháu cũng không biết đường mà lần, ông bèn bảo chúng dừng võng lại bên đường, đoạn gượng quay nhìn một gò đất ngay cạnh đường, rồi chỉ tay mà nói :- Chỗ kia là đất “huyết thực” bất đắc dĩ thì cứ chôn ta vào đây cũng được !Nói xong, Tả Ao liền tắt thở.Con cháu y lời, táng ông vào miếng đất ấy, đó chính là một cái bờ ao. Cũng vì sự việc này mà người ta gọi Tả Ao là Trạng Bờ Ao.Cũng chính vì vậy nghề địa lý phong thủy của Tả Ao bị thất truyền, vì ông mải mê đi đó đây, đã không tìm ra một đệ tử để chân truyền môn địa lý ông học được từ bên Trung Hoa mang về.Nhưng Tả Ao hình như đã tiên liệu được điều này, nên trong sách để lại cho con cháu có hai câu thơ :“Đạo cao đức trọng chưng thânHổ long liên phục, quỹ thần liên kinh”Có nghĩa, có đức trong cuộc sống thì sẽ có phúc, người có phúc sẽ được đất kết, con cháu nhờ đức đó mà vinh hiển (được mọi người kính nể bởi tiếng tăm của cha mẹ để lại).Khi diễn đạt hai câu thơ này, câu Đạo cao đức trọng chưng thân là người có đức có tài, thì rồng cọp (Hổ Long) cũng phải phục (chưng thân, liên phục), quỷ thần cũng tránh xa (quỹ thần liên kinh).Hiểu sâu sa hơn lời của Tả Ao, là làm người phải sống có đạo lý, kính trên nhường dưới, tôn trọng nhân lễ nghĩa trí tín, mọi sự sẽ được tốt lành.Đức không phải từ Thiên Địa (Trời đất) ban, mà chính con người phải tạo ra mới có. Có đức ắt sẽ có đất kết, không cần phải tầm long, định hướng theo phong thủy.Chúng tôi muốn mượn lời của Tả Ao, một thầy phong thủy nổi danh của nước ta, để kết thúc bài viết này.
Đền Thờ
Có rất nhiều truyền thuyết, giai thoại được sách vở ghi lại, nhất là giai thoại khi Tả Ao mất, táng ở “ngôi Huyết thực” để được một làng cúng tế. Thực tế, cũng chưa thấy ở đâu (kể cả ở quê hương) có đền thờ Tả Ao và cũng không thấy Tả Ao được phong thần. Hiện nay, có lẽ là duy nhất ở thôn Nam Trì xã Đặng Lễ huyện Ân Thi tỉnh Hưng Yên có thờ Tả Ao.
Đền Nam Trì nguyên thờ tam vị Thượng đẳng phúc Thần: Tể tướng Lữ Gia (Bảo Công), tướng Nguyễn Danh Lang (Lang Công), Cao Biền (Cao Vương) và Tả Ao gắn với Lễ hội Nam Trì (hay Lễ hội: Bảo, Lang, Biền). Trong danh sách 7 vị thần thờ ở đền Nam Trì (3 vị trên và 1 vị phu nhân Lữ Gia và 2 vị phu nhân Cao Biền) thì vị thứ 7 là Nguyễn Lang nhưng thực tế ở Nam Trì thì chỉ biết vị thứ 7 là Tả Ao chứ không biết Nguyễn Lang là ai.
Theo lịch sử và thần tích thờ tự đền Nam Trì thì khi Tả Ao giúp dân làng lập lại làng, chuyển chùa, đền thờ về phía Tây Nam; nhớ công ơn Tả Ao, dân làng Nam Trì đã tôn Tả Ao là vị Bản cảnh Thành hoàng và thờ cùng tam vị Thượng đẳng phúc Thần từ đó đến nay. Hiện trong đền Nam Trì có câu đối của Tả Ao tả về địa lý, phong thuỷ làng Nam Trì: “Tây lộ khê lưu Kim tại hậu – Đông giang thuỷ tụ Mộc cư tiền” nghĩa là phía tây của đường làng có dòng nước chảy, phía sau của làng là hướng Tây Bắc (hướng Tây Bắc hành Kim) – phía đông làng có sông nước tụ, làng nhìn về hướng đông nam (hướng đông nam hành Mộc).
Tham khảo từ các sách: Tang thương ngẫu lục, Nam Hải dị nhân, Bách khoa toàn thư mở Wikipedia và một số tài liệu khác …