THỨC PHỤ TRỢ.
dụng tư liệu trong cuốn Kim Hàm Ngọc
Kính của Lưu Bá Ôn ,“透地奇门地理奥秘 -Thấu địa kì môn Địa lí áo bí
. Hoàng Triêu Toàn . ( Trung hoa dân quốc thất thập ngũ niên tứ nguyệt tam nhật
– Thai Loan dịch học quán quán chủ Hoàng hào phi long Triêu Toàn , trung chánh
đại học giáo thụ hoàng giới lương đồng bổ thuật .)
Giáp.(Còn được gọi là Thời Gia Kỳ
Môn).
Gia Kỳ Môn thì lại dùng Tiết Khí, tính Siêu Thần, Tiếp Khí để định cục khỡi từ
Phù Đầu nào.
Quý Hợi) .
tính sẵn áp vào 60 Long nhập thủ theo tiết khí nên cũng không quá khó như phần
đã trình bày ở trên. dienbatn sẽ trình bày một số bảng tính sẵn ở phần sau. Khi
lập được bảng Thấu Địa kỳ môn của Long nhập thủ mới chỉ là bước đầu và là công
cụ dùng cho tính toán khi xây cất mộ phần. Đây mới chính là vấn đề dienbatn muốn
trao đổi cùng các bạn.
địa kỳ môn dienbatn dựa vào những kiến thức trong cuốn La kinh thấu giải của tác
giả Vương Đạo Hạnh sau đây.
THỨ 13: 60 LONG THẤU ĐỊA
là thiên Kỷ, bắt đầu từ Giáp Tý ở tầng chính châm. Hợi,
hậu thiên thì liên hệ với Cấn ở tiên thiên; Cấn là sơn vì cớ đó gọi là xuyên
sơn. Chia đều 60 long bắt đầu từ Giáp Tý ở chính châm. Nhâm đứng ở đầu thuộc
Khảm; Khảm ở hậu thiên, liên hệ với Khôn ở tiên thiên; Khôn là đất nên gọi là
thấu địa; không nói xuyên mà nói thấu; lấy thấu là thông thấu tất cả, như cái
ống thổi tro, hơi ra ở cái lỗ đó là thoát thấu được hết. Không nói sơn mà nói
địa, là vì địa phát sinh ra vạn vật và ngũ hành khí đều do ở trong định địa có
cát khí, thổ tùy khí mà khởi, có thể thấy hình tượng nổi lên trên mặt đất, đều
do khí của ngũ hành thấu qua địa trung, hễ khí mạnh thì đất tùy khí mà lên
cao,hễ khí yếu thì đất cũng tùy khí mà bình phục; khí thanh thì đất được thanh
tú đẹp đẽ, khí trọc thì đất cũng tùy khí mà hung ác. Như vậy, khả dĩ nói là đắc
địa. không nói hổ mà nói long; là vì long có
khí mà không hình, nó biến hóa không lường được, không ai là không phải luận
long, thấu ở huyệt trung vì long đó là đầu mối biến hóa. Vậy cần phải biết cái
hay của 60 long thấu địa nên gọi là thấu địa long. Vì lẽ đó, sự tác dụng này là
“táng thừa sinh khí”. Tất nhiên là phải nhận định cái long lai nhập thủ trước
hết; tức là chỗ xương sống đất phân thủy ở sau huyệt, phải nhận xét kim của la
bàn và mạch vào huyệt cho thật đúng.
Tân Hợi nạp âm thuộc kim, mạch long từ bên hữu lại thì lấy tay bên tả làm thừa khí, thì huyệt tinh phải tọa Kiền hướng
Tốn mới thấu được Đinh Hợi khí là thuộc thổ; chính Kiền long tọa huyệt là thổ
sinh Tân Hợi kim, là huyệt sinh lai long thì nhà ấm phát phúc. Nhược bằng thấu
được ất Hợi thì 7 phân Hợi, 3 phân Kiền là hỏa âm (âm nạp âm) tọa huyệt thì khắc
Tân Hợi là long lai khắc huyệt sơn, thì nhà áo ít có lộc, cũng thấu được Kỷ Hợi
khí 5 phân Kiền, 5 phân Hợi là sát diệu gọi là hỏa khanh thì con phá phần nhiều
mắc bệnh lao thổ huyết, tổn thê, khắc tử, bị nước, bùn, kiến, mối vào quan tài
đục gặm hài cốt.
điên, đảo đảo
nghịch hành,
chỉ, như cách vạn trùng sơn”. Xem đó được thấy xuyên sơn, thấu địa đều là tự
dụng 72 long chỉ luận về lai mạch, để định cương đầu (chỗ sống đất gồ lên)mà
thấy phân thủy, ở sau huyệt, cứ trên long tích mà đặt bàn châm, độ khoảng 8
thước loan đầu ở phía sau huyệt, dùng bàn châm của 60 long thấu địa, xuyên sơn
thì không cần dùng.
khí, chữ là vượng khí; như long của 2 vòng Bính
Tý và Canh Tý, thì có 24 vị châu bảo là cát. Lai cần phải tránh chỗ không, hư,
sát, diệu, sai khác, không vong như: Giáp Tý, Nhâm Tý, Mậu Tý long ở trong 3
vòng này, có 36 huyệt là sai thác quan sát là toàn hung. Lại cần phải tránh cái
hỗn thiên độ, không nên khắc phân kim; phân kim không nên khắc tọa huyệt; tọa
huyệt không nên khắc thấu địa; thấu địa không nên khắc lai long. Khắc thì nên
thuận khắc: lấy cái hạ khắc thượng thì sinh cát. Sinh thì nên nghịch sinh: là
lấy dưới sinh trên thì làm xem đó thấy tác dụng của thấu địa, phải nên lưu tâm,
cẩn thận chớ nên khinh thường.
chính khí mạch, nhập thủ là châu bảo. Chép có
12 ngũ tự là hỏa khanh.
đời ai cũng biết là huyệt tại sơn, mà không biết các vị trí của huyệt chỉ độ 1
tấc vuông, là nhỏ bằng sợi dây tơ, đặt nằm trên la bàn.
ĐOÁN
CA
Nhất cá sơn đầu, táng thập phân
phân bần
thủy
doanh
quý
Đinh
thủy
thử lý
tinh
đầu, chôn 10 ngôi mộ
bần
chầu
huyệt
quý
tự
Đó là huyệt tọa vào chỗ hỏa khanh, thì bùn nước vào
ngưu thì có tơ tía quấn phủ
thế
dương
thức chân
phân
lập thành
nhược
định
điên, đảo đảo
nhất huyệt
điên
nhất huyệt
Đinh
châu bảo
cùng nhân
tử đằng
khoảng 8 thước
bên
cái ý nó chuyển về bên nào, đó là sinh khí
chữ thập đỏ
yếu
định có thể đặt la bàn đúng châm
nghiệm như thần
bảo
là có châu bảo ở trong 24 sơn đó
châu bảo là phú quý
đó ở trong đó
tự
vì họ không biết rõ khí của loan đầu
hỏa khanh đem làm châu bảo
đó
cứu được những người cùng khổ ở trong đời
đầu mà tìm chính khí
phủ.
DƯƠNG CÔNG NGŨ
KHÍ LUẬN .
một vòng đến ất Hợi là mạch lãnh khí, là hư, từ
Bính Tý đi một vòng đến Đinh Hợi là mạch chính khí là vượng; từ Mậu Tý một vòng đến Kỷ Hợi là mạch bại khí là sát; từ Canh
Tý một vòng đến Tân Hợi là mạch khí vượng là
tướng; từ Nhâm Tý một vòng đến Quý Hợi là mạch khí thoái là hư
.
QUYẾT
Giáp Tý 7 phân Nhâm 3 phân Hợi là tiểu thác; là Giáp Tý xung quan mà sanh
ra ác bệnh: hoàng sũng, điên dại, phong, lao,
tê liệt, cùi hủi, gái câm, trai ngọng v.v… Nếu thấy ủy ở phương Bính lại, thì
trong quan tài có bùn nước đọng sinh ra thưa kiện v.v… sẽ ứng ào những năm Tị,
Dậu, Sửu.
của phú quý song toàn, mọi việc đều tốt. Nếu thấy thủy ở phương Mùi lại và
phương Khôn thì chung quanh quan quách là ái lọ chứa nước, rất xấu, ứng vào các
năm Thân, Tý, Thìn, Tị, Dậu, Sửu.
phân Nhâm là hỏa khanh thì sinh ra người du đãng, bại nhân luân, không những quan tài bị rễ cây xuyên vào mà còn
kiến, mối đục nữa. Nếu thấy thủy ở phương Tốn lại thì trong quan tài có 2,3 phần
nước, bùn thì hỏng, sẽ ứng vào những năm: Dần, Ngọ, Tuất, Thân, Tý,
Thìn.
Canh Tý ở chính Tý long được phú quý song toàn, phúc lộc thịnh vượng lâu
bền. Nếu thấy thủy ở Tốn lại là trong quan tài
có bùn thì xấu hay dở sẽ ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn.
phân Quý là dương nhận, sinh ra người hay chết non và bị trộm cướp, tổn thê, hại
tử, gặp nhiều tai nạn. Nếu thấy thủy ở Canh Tân lại thì trong quan tài có đầy
bùn nước, ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn.
phân Tý thì người của đều được thịnh vượng, sang giàu. Nếu thấy thủy ở phương Ngọ, Đinh thì quan tài có đầy bùn
nước; tốt hay xấu đều ứng vào những năm Tị, Dậu, Sửu
long, sinh ra người thông minh, lanh lợi, phú quý lâu bền; mọi sự vui vẻ. Nếu thấy thủy ở phương Mùi đến, thì trong
quan tài có nước như ao thì hỏng; tốt hay xấu đều ứng vào những năm Thân, Tý,
Thìn
Kỷ Sửu có 5 phân Sửu, 5 phân Quý là hắc phong, thì con gái bị chết non, con trai
bệnh tật; mọi sự đều xấu, thường sinh ra bệnh điên khùng và thất bại đau đớn.
Nếu thấy thủy ở phương Hợi lại thì trong huyệt có nước và sâu bọ, là vì thủy ở
trong hỏa khanh sinh xuất, sẽ ứng vào các năm Dần, Ngọ, Tuất
long, thì 30 năm sau mới giàu sang Đinh tài, đại vượng; mọi sự cát tường, sinh
ra người nhân từ hiếu thảo, khác thường. Nếu thấy thủy ở phương Dần lại, trong
quan tài có bùn nước là xấu.
khi tọa táng xong có nhiều tai họa xảy ra; mọi sự không vừa ý, cả gia đình đều
lủng củng, khẩu thiệt sẽ ứng vào những năm Hợi, Mão, Mùi. Nếu thấy thủy ở phương
Kiền thì có rễ cây xuyên vào quan tài
3 phân Sửu thì huyệt bình thường, phát phúc, nhưng không bền sẽ ứng vào các năm Dần, Ngọ, Tuất; mọi sự đều
cát tường. Nếu thấy thủy ở phương Hợi lại thì quan tài bị bùn vào nát
hư
Mậu Dần chính Cấn long thì phú quý vinh hoa đời đời thịnh vượng, ứng vào
các năm Thân, Tý, Thìn đậu đạt; chỉ sợ thủy ở
phương Mão lại xung quan thì hung.
5 phân Cấn là cô hư, hỏa khanh, hắc phong, không vong. Sau khi táng 3, 6, 9 năm
thấy sinh ra bệnh tật, gia tộc bại tuyệt, rất đau buồn. Lại thấy Thân thủy lại
xung thì trong huyệt có bùn vào
dồi dào, lắm ruộng nhiều vườn, sẽ ứng vào các
năm Tị, Dậu, Sửu. Nếu thấy thủy ở phương Ngọ xung thì quan tài có bùn là
hỏng.
một đời phát phúc, qua đời sau bị mắc bệnh đau
mắt. Nếu thấy thủy ở Khôn xung vào thì quan tài bị mối, kiến đục thì
xấu.
sinh ra người hay tửu sắc, phiêu lưu, lười biếng, ứng vào các năm Dần, Ngọ,
Tuất. Nếu thấy thủy ở Hợi xung vào thì huyệt có nhiều bùn nước là họa
bại
Mão khí ở chính Giáp long, Đinh tài đều phát đạt, ăn mặc phong lưu. Nếu
thấy thủy ở Tốn xung vào thì có chuột bọ đục
khoét hài cốt, con cháu đau buồn, không nghi hoặc gì nữa.
5 phân Mão là hắc phong, hỏa khanh sanh ra trộm cướp,ngành thứ 3 bị bại tuyệt
trước, rồi đến cả các ngành khác; sau bị thưa kiện, xảy ra nhiều sự hung dữ. Nếu
thấy thủy ở Canh Thân lại thì quan tài có đầy bùn ngập. Mộ này chậm không chịu
di cải thì bị bại tuyệt không tránh khỏi.
long thì phú quý song toàn, sinh ra người thông minh, khỏe mạnh, mọi sự tăng tiến. Nếu thấy thủy ở Tị phương xung
vào thì có rễ cây đâm vào quan tài, lành dữ đều ứng vào các năm Tị, Dậu,
Sửu
Mão khí, 3 phân ất, 7 phân Mão, hay sinh ra người cô quả, yểu tử, đời sau sinh
ra người khòng lưng, khèo chân, tuy có người cũng khó giữ thân thế an toàn. Nếu
thấy thủy ở phương Tuất xung vào thì trong huyệt có nhiều bùn nước nuôi cá
tốt.
Thìn khí, 7 phân ất, 3 phân Mão, thì được người trường thọ, giàu sang, danh giá
nêu cao. Nếu thấy thủy ở phương Thân, Dậu xung vào thì trong quan tài có kiến,
bọ, ứng vào những năm Tị, Dậu, Sửu
long, thì an nhàn phát phúc vĩnh cửu vô cùng; 7 đời giàu sang, sanh ra người tuấn tú, anh hùng, siêu quần quán thế,
ứng vào những năm Hợi, Mão, Mùi; chỉ sợ Đinh thủy xung vào thì sinh hỏa
tai.
khanh, bại tuyệt, hay què chân, sinh khẩu thiệt, thưa kiện, ly hương, tu đạo,
biệt tông. Nếu thấy thủy ở phương Tuất lại thì quan tài có bùn, bọ, kiến ở
trong.
thịnh vượng. Nếu thấy Tý, Quý thủy đến thì
trong huyệt có bùn ngâm
được phát phúc no ấm, yên ổn, rước con rể vào
phòng (rước họa vào nhà) đời sau bại tuyệt vô tử, ứng vào những năm Thân, Tý,
Thìn. Nếu thấy Dần, Thân thủy xung vào, thì bị rễ cây đâm vào quan, vong nhân
bất an.
nhau, ứng vào những năm Hợi, Mão, Mùi. Nếu thấy
phương Kiền thủy xung, thì thây cốt chôn bùn
phân Tốn là hắc phong, hỏa khanh thì bại tuyệt, bách sự hung dữ, sau khi táng 5 hoặc 7 năm thì già trẻ, lục súc tan
như gió bay. Nếu thấy thủy ở phương Sửu đến xung thì có chột làm tổ ở trong
huyệt.
lộc hưng long, ứng vào những năm Dần, Ngọ,
Tuất có nghiệm. Nếu Quý thủy xung vào thì quan tài có bùn đầy.
phân Bính, thì sau 3 hoặc 7 năm thì khẩu thiệt đều. Nếu thấy Mão thủy đến thì trong quan tài có bùn và nước ở ngoài
xâm nhập
hoa phú quý cho con cháu dòng họ, ứng vào những
năm Tị, Dậu, Sửu; chỉ sợ là Ngọ Đinh thủy lại xung thôi
3 phân Tị thì nhân hưng tài vượng sẽ hẹn được đời đời tăng tiến hạnh phúc, ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn, Dần,
Ngọ, Tuất; chỉ kỵ thủy ở Giáp Dần lại thì tổn Đinh.
long thì sinh xuất anh hung, phú quý song toàn, được 3 đời, sau cháu chắt vẫn còn thịnh vượng, ân hưởng bằng sắc
huy chương. Kỵ thấy thủy ở phương Thân lại thì hỏng.
5 phân Ngọ là hỏa khanh, năm Tị, Dậu, Sửu gia trung bị bại khuynh. Lại thấy Đinh, Ngọ thủy lại thì đáy quan tài nát
như bùn.
sinh ra người thông minh, mọi mưu sự đều thành
tốt lành; gặp vào các năm Thân, Tý, Thìn, Tị, Dậu, Sửu. Nếu thấy Sửu, Cấn thủy
lại xung thì trong quan tài bùn nước vào thì hỏng.
phân Đinh thì quan tụng, khẩu thiệt rắc rối, người của bình thường, hằng năm hay sanh ra hoành sự bất ngờ. Nếu thấy
thủy ở Quý, Tý xung thì ứng vào những năm Dần, Ngọ, Tuất không
sai
Mùi khí, 7 phân Đinh, 3 phân Ngọ thì sinh người tuấn kiệt, phát phúc mạnh như
sấm động, tiền nát, thóc mục đầy kho. Nếu thấy Ngọ phương thủy xung, thì quan
tài bị rễ cây xuyên vào thì rất xấu.
long, thì sinh ra người phú quý, thọ khảo mộc đầu. Nếu thấy phương Canh thủy xung vào thì người chết về tai ách,
ứng vào các năm Hợi, Mão, Mùi
khanh thì bại tuyệt rất đau đớn. Lại thấy Tị phương thủy xung, thì thây xương
nát rã thành đất bùn, ứng vào các năm Tị, Dậu Sửu.
long thì gặp được phú quý song toàn, lâu dài, ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn.
Còn gặp hung sự vào những năm Dần, Ngọ, Tuất. Nếu thấy Sửu, Cấn phương thủy xung
vào thì bùn nước đầy trong quan tài là hỏng.
phân Khôn là phạm cô hư thì bị tai họa phá bại không sai.
Tuất thì sinh ra bệnh phong mê cuồng độc. Nếu thấy thủy ở phương Hợi, Nhâm xung
vào thì nhi tôn có sự tai họa bất ngờ.
Khôn, 3 phân Mùi thì phá gia tài, bại sản, bệnh tật, đau đớn
vào những năm Tị, Dậu, Sửu, thuốc thang khó điều trị. Nếu gặp thủy ở phương Ngọ
xung thì quan tài có đầy nước.
minh, tuấn tú, phú quý
vẻ vô cùng. Nếu thấy thủy phương Càn lưu xung thì quan tài bể nát làm hư thì
hỏng bại .
khanh bị bại tuyệt bần cùng. Nếu thấy Tý, Quý
thủy xung thì huyệt có bùn nước, thực không sai.
long thì sinh ra người thông minh trường thọ, phú quý song toàn. Nếu thấy Giáp thủy xông vào thì quan tài đầy bùn
nước, là tối hung.
có nhiều tai nạn xảy ra. Lại thấy Kiền thủy lai xung, thì người bị về tai nạn áp
bức chết.
người của vẹn toàn cả hai và sống lâu. Nếu thấy thủy phương Đinh xung vào thì
huyệt trở thành ao ngâm nước quan tài, hài cốt hư nát.
5 phân Dậu là phạm hỏa khanh, thì bách sự bất như ý, bị tuyệt tự nhân Đinh. Nếu
thấy Quý thủy xung vào thì quan tài đầy bùn nước mãi.
long sinh ra người rất thông minh và giàu sang. Nếu thấy thủy Thìn phương xung vào thì quan tài chôn chỗ nước
bùn.
Dậu khí ở chính Dậu long, thì phát văn võ gần tới tước tam công (quan to) đời
đời giàu sang, điềm ứng vào những năm Thân, Tý, Thìn. Nếu thấy thủy phương Mão
xung, thì áo quan cũng bị bùn vào, không kết phát đâu.
phân Tân thì giàu sang bền mãi, người của hưng vượng, mọi sự đều tốt lành, sẽ
ứng vào các năm Hợi, Mão, Mùi. Nếu thấy Kiền thủy phương xung vào quan tài thì
lại ưu sầu.
1 đời không vẹn, qua đời sau sinh ra người đi làm tăng ni tu đạo; ứng vào các
năm Dần, Ngọ, Tuất, bị cô quả mà bại tuyệt, mọi sự buồn chán, lo âu. Nếu thấy
thủy phương Nhâm xung vào thì sinh ra kỳ quái, ma quỷ trêu
quậy.
đạt vui vẻ, đăng khoa cập đệ sớm, vào những năm Thân, Tý, Thìn. Nếu thấy Giáp
Mão thủy xung, có rễ cây đâm xuyên vào quan tài.
5 phân Thân, phạm vào cô hư, hỏa khanh, bị bại tuyệt,
chết non, cô quả, vào chùa tu đạo, tổn vợ khắc con, quyết định không nghi hoặc,
ứng vào các năm Ngọ, Mùi đã biết trước rồi, lại chịu nhiều tai họa kỳ dị. Nếu
thấy thủy phương ở Thân xung thì quan tài hư nát không còn.
long, thì được giàu sang, sung sướng,ăn mặc phong lưu,những năm Tị, Dậu, Sửu
thấy tin vui mừng, 36 năm sẽ sanh ra người thông minh xuất chúng. Nếu thấy Ngọ,
Đinh thủy xung vào thì hung bại.
Tuất, 3 phân Kiền, sinh ra người chết non, không có của cải, Ly hương vào chùa
tu đạo, tổn khê, khắc tử, bại phòng 2 (con thứ 2 bại), thoái bại không thể lo
tính thoát khỏi. Điềm ứng vào những năm Thân, Tý, Thìn. Nếu thấy thủy Thìn,
Tuất phương xung thì trong quan tài có đầy bùn nước ngập.
3 phân Tuất sinh ra con dâu quả phụ, chết non, bệnh tật
thương, con mồ côi. Năm Dần, Ngọ, Tuất thì phát khốc đau buồn. Nếu thấy thủy ở
cung Khôn xung thì trong quan tài đầy mối kiến đục gặm.
long thì đại phát phú quý, được nhiều sự cát khánh, ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn; chỉ sợ Tốn thủy phương xung thì
quan tài đầy bùn nước mục nát,tối hung.
long, thì Đinh tài đều phát, lâu bền thịnh vượng. Nếu thấy Ngọ, Đinh thủy xung thì bùn vào quan tài mục nát, đại hung,
tối kỵ.
khanh, sinh ra hung bại, đến những năm Thân,
Tý, Thìn, Dần, Ngọ, Tuất người ly tán tha phương, đa sinh kỳ quái. Nếu thấy
Canh, Dậu thủy xung, thì rễ cây xuyên đâm vào quan tài thì hung
bại.
Hợi khí, 7 phân Hợi, 3 phân Nhâm, được làm quan, phát mọi sự, phong
hanh, người của được thịnh vượng, sẽ ứng vào
các năm Thân, Tý, Thìn có nhiều cảnh vui đẹp. Nếu thấy Thìn thủy xung thì trong
quan tài không sạch sẽ.
HỎA KHANH THÂN ĐOÁN
Mậu Tý, Giáp Ngọ khí nan đương (khí ác khó
chịu)
Âm dương sai thác, thị (là)
không vong
Hốt thính sư nhân chân khẩu
quyết (tức là phép truyền khẩu)
Lập
trạch (nhà) an phận (mả) kiên Tốn thương
Thân, Tý, Thìn niên, Dần, Ngọ, Tuất (ứng vào 6 năm
này)
Tật bịnh quang tai (thưa kiện)
tổn nhị phòng (con thứ 2)
Quan tặc
khiên liên (kéo dài) phòng phòng chiêm (cả các con)
Nê thủy nhập mộ (mộ) bất phi thường (độc
lắm).
******
Kỷ Sửu, Ất Mùi, khí hung bạo (dữ tợn)
Kỳ trung hỏa khanh, tối bất lương
Tị, Dậu, Sửu niên, Hợi, Mão, Mùi (ứng vào 6 năm)
Tật bịnh quang tai, thoái điền
trang
Bạch nghĩ (môi trắng) biện tòng
đế hạ (dưới đáy) nhập
Tổn thê, khắc
tử, tại tam phòng (con thứ 3)
Thử phân
(mộ này) nhược hoàn (nên còn) bất cải dĩ
Tử tôn tháp tự (giống như) ngõa thượng sương
(tuyết)
Canh Dần, Bính Thân, khí
bất lương
Lập trạch, an phân, tổn
trưởng phòng
Thân, Tý, Thìn niên,
Dần, Ngọ, Tuất
Tổn thê, khắc tử tối
nan đường
Tật bịnh quang tai, phòng
phòng chiếm (lẫn cả cho con)
Thủy,
hỏa, khiên liên tổn ấu phòng (con trẻ nhỏ)
Bạch nghĩ tiên tòng, để hạ nhập
Điền trang thoái bại, thủ không phòng (nghĩa là kiến,
mối,… dưới đáy quan mà
vào khoét, thì
ruộng nương tan hết, giữa buồng rỗng tuếch)
Tân Mão, Đinh Dậu bãi vi cường (chẳng phải
mạnh)
Lập trạch, an phân, tổn nhị
phòng
Hợi, Mão, Mùi niên, Tị, Dậu,
Sửu
Tật bịnh, quang tai, tổn tam
phòng
Thủy, hỏa Khôn liên, đa hoành
sự
Nhân Thân liên lụy, phòng phòng
đương (cả các con)
Nhâm Thìn, Quý Tị
khí như thương (mũi nhọn)
Lập trạch,
an phân tổn tam phòng
Thân. Tý, Thìn
niên, Dần, Ngọ, Tuất
Tật bịnh, quang
tai, tổn tiểu phòng (con út)
Hậu đại
nhi tôn, đa tăng đạo
Tổn thê, khắc
tử, bất an khang.
******
Mậu Tuất, Kỷ Hợi thị không
vong
Lập trạch, an phân tổn trưởng
phòng
Tị, Dậu, Sửu niên, Hợi, Mão,
Mùi
Tật bịnh, quan tai, tổn tiểu
phòng
Thủy, hỏa khiên liên, xuất
ngoại tử (chết)
Điên địa, nhân tài,
như tuyết sương
Bạch nghĩ tiên tòng,
để hạ nhập
Nhi tôn ngỗ nghịch, tẩu
tha hương.
Tiên Thánh nói: ở dưới chỗ
huyệt ngồi mà không được là chân khí mạch, thì dầu có muôn tầng núi trùng Trùng, điệp điệp ở trước mặt cũng coi
như là không có gì cả.
Chỗ đặt mộ mà
được long mạch tốt đẹp hoàn toàn, thì dù có ít sơn sa, cũng có thể phát phú quý
được, chính là bảo vệ lý khí ở bài trên đây.
Bính Tý, Canh Tý 2 vòng này là châu bảo, đó là “Tầng thừa
sinh khí” là được cái linh khí của núi sông.
Vậy lấy là cái tốt hàng đầu của 36 vòng La kinh.
có ghi rõ chữ số tam (3), thất (7), ngũ (5), và chữ chính,
làm 1 vòng đến chữ thiên chính, đã bày ở tầng thứ
14.
Đặt táng vào hỏa khanh, thì huyệt
sẽ có mối, kiến, rễ cây và bùn nước chiếm ngâm nát
hài cốt, đất trên mả khô khan, cây cỏ héo hon như phân trâu,
bò, con cháu sinh dâm loạn, yểu vong, cô quả, sinh ra người ngỗ nghịch, điên
cuồng, người hết, của hao, tai họa, kiện cáo liên miên
v.v…
Đặt táng vào huyệt châu bảo, mở
xem hẳn là thấy có sinh khí ôn nhuận, đất có ngũ sắc vân như hồng hoàng, sáng sủa, lại có tơ hồng, dây tía phủ
quấn quan tài, hài cốt. Đất trên mộ thì có khí mát, ẩm dịu, cây cỏ xanh tươi
tốt. Vậy sinh ra phú quý không sai.
4/ TẦNG THỨ 14: THẤU ĐỊA KỲ MÔN ?
TỬ PHỤ, TÀI QUAN, LỘC MÃ QUÝ NHÂN
BÀI CA NGŨ NGÔN: TIÊN NGÔN
XUYÊN SƠN HỔ
Phương hành thấu địa
long
Hỗn thiên khai bảo
chiếu
Kim thủy nhật, nguyệt
phùng
Nghĩa là: Trước hết nói xuyên
sơn hổ, rồi đi đến thấu địa long, tự nhiên trời mở sáng như bảo kính soi, thì kim, thủy, nhật, nguyệt gặp
nhau. “Xuyên sơn hổ” là tiếp mạch của 72 long,
“tiên thức” là xét cái lai mạch trước để biết nhập thủ là long gì ? Không nói là long mà nói là hổ, đó là
ý nghĩa của phép dùng “ngũ hổ” làm nguyên độn để ứng khí hậu, “phương hành” là
đã biết long nhập thủ rồi, thì sau mới có thể làm việc thừa khí, tọa huyệt được,
“thấu địa” tức là 60 long của tọa huyệt, với 72 long là cái bên trong, cái ở
ngoài, nên bảo là “tương biểu lý”, thâu: là như dùng cái ống thổi khói, để khí
thông vào huyệt, “xuyên” là như dùng sợi chỉ để xỏ vào lỗ kim, để được suốt tới;
“hỗn thiên” là cái hỗn thiên lục Giáp dùng làm độn khởi, để tìm cái sa thủy của
tứ cát, tam kỳ, “bảo chiếu” là như cái gương sáng, soi vào vật đó, có thể thấy
đủ cả tứ cát tinh của hỗn thiên di chuyển “kim, thủy; nhật, nguyệt” là 4 cấm
tinh này hội hợp 1 chỗ, lấy đó làm tác dụng, để thu sa, thủy, lai long của bản ở
tọa huyệt hợp với tầng thứ 5 của la bàn, cùng luật lệ; trước hết theo thời tiết
của 6 Giáp, định ra 3 thời hậu: thượng, trung, hạ, sau khi đã chia ra 9 cung
dùng để độn Giáp, xem khởi Giáp Tý ở cung nào,
sau đó mới đặt ra quẻ độn, biết quẻ đầu ở đâu, bản long tới chỗ nào, tử, phụ,
tài, quan nhân đó mà suy đoán. Nhật, nguyệt, kim, thủy theo đó mà hội. Tam kỳ
bát môn theo đó mà suy ra, thì biết hết sự của tinh độ nội
quái.
DƯƠNG ĐỘN KHỞI TIẾT
CA
Đông chí, kinh chập, nhất thất
tứ
Tiểu hàn, nhị bát ngũ vi
thứ
Đại hàn, xuân phân, tam cửu
lục
Lập xuân, bát ngũ nhị tương
trục
Thanh minh lập hạ, tứ nhất
thất
Ngũ thủy, cửu lục tam vô
thất
Tiểu mãn, cốc vũ ngũ nhị
bát
Nang chủng, lục tam cửu số
chi
Nghĩa là: Thuộc về tiết đông chí
và kinh chập thì khởi ở số 1, 7, 4. Tiết tiểu hàn thì khởi ở số 2, 8, 5. Tiết
đại hàn và xuân phân thì khởi ở số 3, 9, 6. Tiết lập xuân thì khởi ở số 8, 5,
2. Tiết thanh minh và lập hạ thì khởi ở số 4,
1, 7. Tiết ngũ quỷ thì khởi số 9, 6, 3. Tiết tiểu mãn và cọc vũ thì khởi ở số 5,
2, 8. Tiết mang chủng thì khởi ở số 6, 3, 9.
ÂM ĐỘN KHỞI TIẾT CA
Hạ chí, bạch lộ, cửu tam lục
Đại tuyệt, tứ thất, nhất cung trú
Đại thử, thu phân, thất nhất thứ
Tiểu thử bát nhị ngũ trung xuy
Lập đông, hàn lộ, lục tam cửu
Lập cung, nhị ngũ, bát cung tham
Tiểu hàn sương giáng, ngũ bát nhị.
Sứ thử nhất tứ thất nội hàm
Nghĩa là: Tiết hạ
chí, bạch lộ ở số 9, 6, 3. Tiết đại hàn ở số 7, 1, 4. Tiết đại tuyết bạch lộ ở
số 4, 7, 1. Tiết tiểu thử ở số 8, 2, 5. Tiết lập đông hàn lộ ở số 6, 3, 9. Tiết
lập thu ở số 2, 5, 8. Tiết tiểu hàn sương giáng ở số 5, 8, 2. Tiết sử thử ở số
1, 4, 7.