TÌM VỀ MỘT GIAI THOẠI ĐẶT MỘ
.
( Đã viết trên Vietlyso , nay đăng lại và tiếp tục phần sau
) .Từ giai thoại về ngôi mộ Tổ của dòng họ Vi đã đăng trong bài
NHỮNG GIAI THOẠI VỀ ĐẶT MỘ ( TỪ CUỐN GIA PHẢ DẤU KÍN TRONG HANG CHÚA …ĐẾN KIỂU
ĐẤT LƯỠNG NGƯU ẨM THỦY…MẢ TỔ VI-VĂN-ĐỊNH Ở ĐÂU ).
dienbatn đã truy tầm
và phát hiện ra nhiều điều thú vị . Từ việc phát hiện được cuốn gia phả của dòng
họ Vi , đến những bức ảnh của VI VĂN ĐỊNH và gia tộc , tiếp đó là tiếp xúc với
truyền nhân của dòng họ VI , người viết sẽ kể lại cho các bạn câu chuyện này
theo những góc độ khác . Chính vì vậy , người viết xin tách riêng bài này ra
khỏi loạt bài NHỮNG GIAI THOẠI VỀ ĐẶT MỘ và viết thành một bài riêng biệt
.
Người viết xin trích lại toàn bộ bài này để các bạn tiện so sánh
.
dienbatn .
TỪ CUỐN GIA PHẢ DẤU KÍN TRONGHANG CHÚA
…ĐẾN KIỂU ĐẤT LƯỠNG NGƯU ẨM THỦY…
MẢ TỔ
VI-VĂN-ĐỊNH Ở ĐÂU
Trong thời lệ thuộc, đồng bào
Bắc Việt, và có khi ở cả Trung Nam phần, không mấy ai không biết đến cái tên Vi
Văn Định : một quan đại thần được Triều đình Huế phong tới Hiệp Tá Đại Học Sỹ,
thay họ Hoàng, làm Tổng Đốc tỉnh Hà Đông, một địa điểm kế cận cố đô Thăng Long,
chỉ cách Hà Nội có 11 cây số.
Đối với thực dân, họ Vi tuy không
được kính trọng bằng họ Hoàng, nhưng thục sự lại được tín nhiệm hơn nhiều, vì
một lẽ rất dễ hiểu : Vi Văn Định trung thành tuyệt trần với… Mẫu Quốc, bất cứ
trường hợp nào hay hoàn cảnh nào cũng đều hết lòng xả thân thờ nhà nước Bảo Hộ,
để sẳn sàng diệt trừ tất cả mọi mầm mống, mà y gọi là phản loạn, muốn khuynh
đảo… nước Mẹ !
Thiên hạ cho rằng : y sở dĩ bạo ngược, ác độc
tới mức độ dã man, mọi rợ ăn xương, uống máu người Việt Nam không biết hôi tanh,
không cần tiêu ớt, chỉ là vì y không có một chút máu huyết Lạc Hồng nào trong
huyết quản, mà thực sự là con cháu người Thổ ở miền Lạng Sơn, Cao Bằng gì
đó…
Người ta đã trưng thêm bằng cớ : họ Vi hiện thời, còn có nhiều sản
nghiệp dinh cơ ở đất Lạng Sơn gần sông Kỳ Cùng, để minh chứng cho lời kết tội
trên là đúng !
Nhưng sự thực ra sao ? Vi Văn Định là người Việt hay là
người Thổ ?
Đó là điều thắc mắc mà ai cũng muốn tìm cho ra lời
giải.
Hồi ấy, tôi còn nhớ rõ về mùa hè năm 1941, nhờ có một
người bạn học làm Tri Châu ở Bắc Quang, tôi đã lên thăm phong cảnh tỉnh Hà Giang
và ở chơi Bắc Quang tới hơn ba tháng trời.
Một thầy Nho già, người giúp
việc án từ rất đắc lực cho quan Châu huyện, tuy là dân miền suôi, nhưng vì lưu
lạc lên mạn ngược từ thuở ấu thời, nên rất am hiểu phong tục, địa dư trong các
thôn bản ở khắp tỉnh Hà Giang, đã thuật lại cho tôi nghe nhiều giai thoại cực kỳ
huyền bí, quái dị, mà nếu ai không sống qua một thời gian nào đó với dân chúng
miền sơn cước, hẳn cũng khó tin là chuyện thực.
Một hôm, đáp bè
xuống Ngòi Xảo, nhìn thấy phong cảnh đẹp như tranh vẽ, núi non trùng điệp, vươn
mình sừng sững trên dòng sông cuồn cuộn nước chảy về suôi, tôi hỏi thì thầy Nho
già chỉ về phía một trái đồi ở ngay đầu bến Vạn, nơi các lái buôn gổ thường kết
bè, thả cây về miền Việt Trì, Hà Nội mà nói rằng :
-Đấy kìa là đồi
Tướng, trên đó có ngôi mả tổ của Vi Văn Định, lúc đó đang làm Tổng Đốc Hà
Đông.
Nói rồi, thầy Nho bắt trạm phu phải ghé bè cho tôi lên
bộ, đoạn hướng dẫn tôi lên đồi xem phong cảnh.
Dây leo chằng chịt, những
cổ thụ lớn tay ôm, đa số là loại cây bồng sắc (gổ quý) sần sùi, cao vút, cành lá
rậm rạp đan kết thành một vòm trời xanh thẳm, khiến cho khu đồi núi mát rượi,
mặc dầu lúc đó đang là giữa mùa hè nóng bức.
Rẽ lau, vạch lá
một cách khó khăn tới hơn nửa giờ, chúng tôi mới lên được tới đỉnh
đồi.
Đến trước một ngôi mả lớn, cỏ mọc xanh um, thầy Nho nói
:
– Mả tổ họ Vi này, theo lời bô lão thổ dân thuật lại thì đã
được an táng từ đời nhà Lê Trung Hưng. Rồi bể dâu biến chuyển, họ Vi di cư qua
đất Lạng Sơn, xưng hùng, xưng bá một cỏi giang sơn, không khác gì một vị tiểu
vương quyền khuynh thiên hạ.
Thầy Nho điểm nụ cười nhạt nhẻo
nói tiếp :
– Mà đúng thật ! Dù không được quyền khuynh thiên hạ
thì họ Vi cũng là anh hùng một cõi, đúng với lời dân chúng sở tại vẫn còn truyền
tụng cho đến bây giờ những lời đồng giao về kiểu đất quý báu, hiếm lạ này
:
” Lưỡng Ngưu ẩm thủy,
Bột phát Công
Khanh,
Huynh đệ hiển danh,
Anh hùng nhất Khoảnh…”
Nói
xong, thầy Nho sợ tôi không hiểu, vội đưa tay chỉ qua hai gò đất, đứng cao sừng
sửng ở hai phía tả hửu Ngòi Xảo giải thích thêm :
– Đấy ông
coi, có phải hai cái gò ở bên bờ Ngòi bên kia giống hệt hai con trâu mộng, đang
cúi đầu xuống dòng nước không ?
Đó là “lưỡng ngưu ẩm thủy” đấy
!
Chỉ tay về đàng trước mặt, thầy nói tiếp lời
:
Nếu đây là chánh huyệt, thì ngôi mả này trông thẳng ra trái
Cao Sơn, một hòn núi cao ngất tới trời xanh mà thiên hạ đồn đải là có một làng
Mèo sống biệt lập ở trên núi cao ấy từ đời nhà Trần, khi Chiêu văn Vương Trần
Nhật Duật đem quân triều đình đến điều phạt mấy động chúa ở vùng Lĩnh Nam. Ngôi
mả tổ của họ Vi trông thẳng ra ngọn núi Cao Sơn kia, tựa lưng vào dãy Trường
Sơn, tay long, tay hổ là hai dãy đồi thoai thoải chạy dài theo dòng sông Cả, tạo
thành một kiểu đất kỳ thú vô cùng quý báu, mà theo lời thuật lại của các bô lão
sở tại thì hình như Bà chúa Rừng đã cố ý để dành riêng cho dòng họ Vi
vậy.
Rồi vừa dẫn tôi đi coi quanh khu đồi, thầy Nho vừa thuật
lại giai thoại mà chính thầy đã được nghe thổ dân kể lại rất rõ ràng về những sự
tình cờ kỳ dị xảy ra chung quanh ngôi mả dòng họ Vi, lúc đó đang là những nhân
vật hét ra lửa ở đất Bắc Hà.
CON CHÁU HOÀI-ÂM HẦU HÀN TÍN .
Sau
khi đem hết sức học bình sinh và tài kinh bang tế thế, định quốc, an bang ra
giúp sức cho anh Đình Trưởng họ Lưu dựng nên cơ nghiệp nhà Hán, lưu truyền được
tới trên 400 năm, thì Hoài Âm hầu Hàn Tín bị vua Hán tru di tam tộc (do Lã Hậu
hạ lệnh thì đúng hơn).
Một gia tướng trung nghĩa của họ Hàn, đem dứa con
nhỏ của Hàn Tín chạy trốn về phía Nam, mai danh, ẩn tích, đổi thành họ Vi (một
nửa chữ Hàn) sống lẫn lút ở vùng biên giới Việt Hoa.
Đến đời nhà Trần,
họ Vi lúc đó làm Tù Trưởng ở động Lĩnh Nam, lại bị quân sĩ của Chiêu văn Vương
Trần Nhật Duật kéo đến chinh phạt.
Binh đơn, tướng thiểu Tù Trưởng Vi
Đạt bị tấn công cả bốn mặt, một lần nữa, lại phải đội đứa con thơ là Vi Thành
mới lên ba tuổi ở sau lưng, rồi nhảy lên mình ngựa, đánh phủ trùng vây, chạy về
lánh nạn ở Ngòi Xảo, phó mặc gia quyến cho sự rủi may, của cơn binh lửa phũ
phàng.
Sống giản dị chung đụng với thổ dân trong một túp lều siêu vẹo ở
Ngòi Xảo, Tù Trưởng Vi Đạt ban ngày phải đai con trên lưng vào rừng lấy măng tìm
gỗ quý, cũng như trăm ngàn người khác ở địa phương này, tối về, hai cha con lại
hú hý với nhau ở bên bếp lửa, cuộc sống của viên Tù Trưởng thất thế, như vậy,
cũng gọi là tạm yên.
Năm Vi Thành lên bảy tuổi, ông Vi Đạt ngoài việc
dạy học chữ, còn bắt Thành phải tập luyện cả võ nghệ, hy vọng sau này, con trai
sẽ trở nên hữu dụng, văn võ toàn tài.
Đất sơn cước hiếm nhân tài, ông Vi
Đạt phải tự đảm nhiệm lấy công việc dạy bảo con trai, và do đó một số dân cư sở
tại cũng nô nức cho con em đến nhà ông Vi Đạt, để nhờ ông dạy chữ, dạy
võ.
Một buổi kia, chợt có một lão hành khất cùi đến xin ăn ở các nhà
trong vùng Ngòi Xảo.
Thấy ông lão mặt mũi sần sùi, ngón tay bị cụt, bàn
chân lỡ loét, gớm ghiếc, ruồi nhặng bu chung quanh, mỗi khi xê dịch, tiếng vo ve
nổi lên rào rào như đàn ong vỡ tổ.
Trẻ con chạy theo ở tít xa xa, vỗ tay
hò reo chế diễu, còn người lớn thì ghê tởm nếu không đưa tay bịt mũi, khạc nhổ
thì cũng lãng đi chỗ khác, chớ không dám đến gần.
Vì vậy, ông lão đi đến
đâu, cũng bị xua đuổi, không một ai chịu bố thí cho một chút gì, khiến ông lão
đói khát quá, lã đi nằm co quắp trên nền miếu Sơn Thần, cơ hồ không còn đủ sức
gượng dậy, để lê bước đi nơi khác nữa khi bị tuần đinh đến hạch hỏi, đòi bắt
giải lên quan Châu Bắc Quang để đưa về nhà thương Vòi ; một bệnh xá chuyên trị
những người cùi, sống riêng biệt trong một khu vực rộng mông mênh, có hàng rào
giây kẽm gai ngăn cách với thế giới bên ngoài.
Thuở ấy, thiên hạ ghê
tởm, kinh sợ bệnh hủi hơn tất cả mọi chứng bện nan trị khác ! Cứ thấy ai mắc
phải bệnh ấy, là người ta đi báo quan đến bắt đem nhốt trong nhà thương Vòi ở
Bắc Giang để điều trị.
Lão hành khất nằm ở miếu Sơn Thần mỗi ngày một
thêm yếu đuối, trước còn lăn lộn rên la thành tiếng, sau hình như đói khát quá
cơ thể suy nhược quá độ, đến nổi lão chỉ nằm co quắp, thoi thóp thở chờ
chết.
Mấy bô lão thổ dân và viên Chánh Tổng sở tại bàn luận với nhau,
rồi nhất định cho trai tráng trong bản khiêng lão bỏ ra ngoài thung lũng ở cách
xa đấy chừng hai dặm đường, để tránh trách nhiệm, vừa sợ quan trên quở trách là
có người mắc bệnh hủi đến quanh quẩn trong vùng, mà không chịu đi báo, vừa ngại
bị tốn kém, lôi thôi, phải chôn cất cho kẻ xấu số, nếu lão hành khất không còn
đủ sức chống chọi với tử thần.
Đúng lúc ấy, ông Vi Đạt đi săn về, vai
vác con nai tơ, lưng đeo cung tên, lầm lũi đi ngang miếu Sơn Thần, thấy viên
Chánh Tổng đang đứng sai phái mấy thanh niên trong bản đem võng ra khiêng lão
hành khất bỏ ngoài thung lũng, một nơi nổi tiếng là nhiều hổ báo, lợn rừng
thường về phá phách ngô khoai của dân cư sở tại và bắt các gia súc đem vào núi
sâu ăn thịt.
Ông Vi Đạt nghĩ đến cảnh hoạn nạn của mình năm nào, giọt lệ
anh hùng bất giác tuôn rơi tầm tả, động lòng thương kẻ tuổi cao, tác lớn, không
may bị sa cơ lỡ bước, gần phơi gửi xương nơi đất khách, liền đặt con nai xuống,
chạy vội vào trong miếu, trước vẻ mặt ngơ ngác của các bô lão đất Ngòi
Xảo.
Không quản ngại mùi hôi tanh nhức óc, máu mũ đầm đìa, ông già họ Vi
dơ cao chiếc khăn bịt đầu phất ngang một cái mạnh, để xua đuổi những đàn ruồi
nhặng bay vo vo như tiếng sáo diều ở chung quanh lão hành khất, rồi ngồi bệt
xuống nền miếu, sờ ngực nạn nhân, mím môi, lắng tai nghe ngóng.
Thấy
toàn thân lão hành khất vẫn còn hơi nóng, mạch vẫn còn thoi thóp đập đều, mặc
dầu rất yếu, ông Vi Đạt mừng rỡ, vội đứng phắt lên, đến gần viên Chánh Tổng, tha
thiết yêu cầu cho mình được đem nạn nhân về nhà chạy chữa.
Viện cớ câu
cửa miệng : ” cứu nhất nhân, đắc vạn phúc ” để kích thích lòng bác ái, từ bi của
hương chức sở tại, ông Vi Đạt tin tưởng rằng các bô lão sẽ vui lòng cho phép ông
gánh giúp họ gánh nợ mười đời ấy, nhưng không ngờ ông bị thất vọng hoàn toàn, vì
viên Chánh Tổng cương quyết đuổi lão hành khất ra khỏi vùng Ngòi Xảo, sợ để lão
ở quanh quẩn trong bản, sẽ gây nguy hại cho cả dân cư sở tại.
Lỡ ra quan
Châu biết thì họ tránh sao khỏi sự quở trách ?
Ông Vi Đạt tha thiết nói
thế nào, họ cũng không chịu nghe, khiến cho ông già họ Vi tức bực quá không còn
biết làm cách gì để cứu mạng lão hành khất.
Nghĩ đi, nghĩ lại mãi, sau
ông Vi Đạt phải đem con nai cho người bạn vẫn đi săn với mình, để nhờ làm thịt
rồi muối mặn, để dành ăn dần dần, còn ông thì hăng hái đứng chờ, đi theo lão
hành khất cho đến cùng, chớ ông không nở bỏ rơi người bạc số, mắc nạn giữa
đường.
Sở dĩ ông Vi Đạt dám có ý định táo bạo ấy, là vì ông sinh sống ở
vùng này từ lâu, biết rõ địa dư đồi núi, chỗ nào có hang có động, nơi nào có
quán, có miểu, nên ông đoán được rằng, nếu bọn trai tráng khiêng lão hành khất
đem bỏ ra ngoài thung lũng thì gần đấy có cái nhà mồ bỏ hoang không biết từ bao
giơ, tuy siêu vẹo, tiều tụy, song tạm thời cũng có thể che mưa tránh nắng được
trong cơn gấp rút này.
Nghĩ thế rồi, ông chạy vội về nhà, đem thằng con
trai là Vi Thành đến gửi một người hàng xóm, rồi thu xếp quần áo với mấy món cần
dùng, đi theo lão hành khất.
Quả nhiên các việc đã xảy ra đúng như sự dự
đoán của ông Vi Đạt.
Ngay sau khi hai thanh niên trong bản cuốn võng,
đem về Ngòi Xảo phục lệnh viên Chánh Tổng, ông Vi Đạt cố nâng lão hành khất vào
nhà mồ, chỉ ở cách đấy chừng ba mẫu ruộng.
Sinh trưởng miền rừng rậm núi
cao, ông Vi Đạt rất thạo về tính dược các loại cây cỏ, vẫn được dân cư địa
phương dùng chửa các chứng bệnh hiểm nghèo, nên vừa thu xếp yên ổn nơi ăn chốn ở
cho hai người, họ Vi liền chạy vào rừng, tìm thuốc chửa bệnh cho lão già
hủi.
Thuốc gia truyền tuy rất giản dị nhưng lại cực kỳ hiệu nghiệm, nên
chỉ ba ngày sau đó, lão hành khất đã tỉnh táo, nói năng, cử động
được.
Vả lại, lão hành khất vốn bị đói khát, khổ cực quá độ, sức khoẻ
suy giảm nhanh chóng, khiến chứng bệnh hoành hành dữ dội đến ngất lịm đi, bề
ngoài giống in người đang hấp hối.
Nhưng sự thực, tình trạng lão không
đến nổi nào !
Phần nhờ các phương thuốc gia truyền, phần được sự săn sóc
chu đáo, tận tâm của ông Vi Đạt, lão hành khất có cơm ăn, thuốc uống đầy đủ, nên
chẳng bao lâu đã đi lại được một mình, không còn phải dìu giắt như mấy hôm trước
nữa.
Trong thời gian ấy, ông Vi Đạt vẫn thỉnh thoảng về Ngòi Xảo thăm
con.
Vi Thành tuy nhỏ song vốn là con nhà tướng, được rèn luyện quyền
cước, tập tành võ nghệ từ khi mới chập chửng biết đi, nên mạnh dạn phi thường,
một mình dám cầm thanh mả tấu, đi sâu vào rừng núi lấy măng để đem về đổi gạo
giúp đở cho nhà một phần nào, giải quyết sinh kế gia đình.
Từ hôm được
thân phụ đem gửi ở nhà hàng xóm, Thành nhớ bố, thuờng cứ lần mò tìm đến nhà mồ
thăm cha, sau giờ học, mặc dầu đã bị ông Vi Đạt cấm đoán nghiêm ngặt. Ông chỉ sợ
con trai gặp thú dữ ở dọc đường, hay rủi ro bị lạc lối thì khốn.
VÀO
HANG SÂU TÌM DI CHÚC
Sau thấy Thành mạnh tợn, có lần đánh nổi một con
heo rừng, lại khôn ngoan, quyền biến, hiếu thảo, thông minh, ông mới yên tâm,
ngày nào ông không về bản được, lại cho phép con đến thăm, để luôn tiện mang
theo các thứ thực phẩm cần thiết cho hai người ở ngoài thung lũng.
Một
tháng trời trôi qua.
Bệnh tình lão hành khất đã thuyên giảm rõ rệt, mặc
dầu lão vẫn còn phải chống gậy mỗi khi muốn xê dịch.
Thấy thế, Vi Đạt
liền tính chuyện đưa lão hành khất về bản cho tiện việc săn sóc, và đỡ phiền
phức trong sự làm ăn của mình, nhưng lại sợ các bô lão vẫn còn giữ thành kiến
không hay với ông già bệnh hoạn.
Vì vậy, ngay ngày hôm sau, họ Vi phải
đi thăm các hương chức để dò xét ý kiến của mấy người nắm quyền hành trong
bản.
Các hương chức thấy bệnh tình lão hành khất đã gần bình phục, hơn
thế, người hàng ngày sống gần bệnh nhân là họ Vi, vẫn khoẻ mạnh, cường tráng như
thường nên họ cũng không quá khắc nghiệt khó khăn như trước, bằng lòng cho họ Vi
rước lão hành khất về nhà.
Vi Đạt mừng rỡ quá, vội chạy ra nhà mồ, thuật
lại tin đó cho lão hành khất biết, rồi ung dung dẫn lão về nhà.
Vị Thành
cũng hớn hở theo chân hai người, trên vai vác một bọc đồ dùng cần
thiết.
Đến lúc ấy, lão hành khất mới cho biết : lão họ Lương tên Nhất
Kiếm, vốn là người Trung Hoa, nguyên quán ở huyện Lịch Thanh, qua Việt Nam từ
hơn hai chục năm nay, vẫn quanh quẩn ở vùng biên giới Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà
Giang, sống bằng nghề xem tướng số.
Vi Đạt thấy người bạn già đã tỉnh
táo, vui vẻ vô cùng, ngoài ra họ Vi không hề nghĩ gi đến sự đền ân đáp nghĩa của
Lương lão.
Nhưng ba hôm sau, vào hồi quá nửa đêm, giữa lúc cha con họ Vi
đang say sưa trong giấc ngũ ngon lành thì Lương lão chợt đến bên, lay gọi cha
con Vi Đạt dậy, bảo Thành đi sửa soạn pha trà uống, để lão nói một câu chuyện
cực kỳ quan trọng cùng ông Vi Đạt.
Cha con họ Vi kinh ngạc, ngỡ ngàng
nhìn lão già, tưởng Nhất Kiếm cuồng ngôn, loạn trí…
Nhưng thoáng thấy,
nét mặt nghiêm trang trịnh trọng của Lương lão, không chứa đựng một vẻ điên dại
hay đùa giởn, diểu cợt gì, nên cũng lẳng lặng làm theo lời yêu cầu của Lương
lão.
Ấm trà tươi vừa pha xong, lão hành khất cầm chén nước trên tay,
nhưng không uống, lại đăm đăm nhìn thẳng vào mắt chủ nhà, luồng nhỡn quang như
muốn xoáy chặt lấy người đối diện.
Họ Vi chợt rùng mình, khi nhận thấy
ánh mắt của Lương lão lúc nãy sáng ngời một cách kỳ dị, không lờ đờ, đần độn,
ngây dại, chất phác như bình nhật nữa.
Vi Đạt bất giác rùng mình, lơ láo
nhìn quanh như muốn tìm một cái gì để tự vệ.
Không ! Nhất định tổ phụ
lão không lầm lộn đâu ! Cứ xem cách thức các cụ dấu diếm cuốn gia phả nơi thâm
sơn cùng cốc, khó khăn, gian hiểm, cũng đủ hiểu mức độ quan trọng của khu linh
địa.
Vậy như lời lão vừa trình bày, ngày mai đây, lão sẽ cùng đi với
tiên sinh đến Hang Chúa, để tìm tập sách quý, mà theo chúc thư, có ghi chú rõ
ràng phương pháp hộ thần, án hướng, tự mình phân kim an táng lấy, chứ không cần
phải nhờ thầy địa lý.
Đó là một lối đề phòng rất cẩn thận, chu đáo của
các Cụ, ví các Cụ sợ kẻ tiểu nhân, sẽ lợi dụng cơ hội này, để chiếm đoạt khu đất
quý.
Sau khi đã tìm được cuốn gia phả, ghi dấu rành mạch phương hướng
rồi, tiên sinh sẽ trở về quê quán kiếm hài cốt ông cha, còn lão thì nằm… chờ
chết ơ Ngòi Xảo, vì lão biết mình, lão không sông được mấy ngày nữa đâu
?
Lương lão thở dài, đoạn cười gượng :
– Làm người ai không một
lần phải chết ! Huống chi sinh, ký, tử, quy (sống gửi thác về), người có nhẹ nợ,
mới sớm được về với cát bụi. Vì thế, lão tính rằng : muốn cho khỏi lỡ việc,
chúng ta phải đi ngay vào Hang Chúa mới kịp !
Vi Đạt vội dơ tay phác một
cử chỉ phản đối, rối nghiêm nghị cắt ngang :
– Không được ! Sao lão
trượng lại nghĩ quẩn như vậy ! Đã biết có huyệt tốt, thì cứ đánh dấu đấy, ai dám
tranh cướp mà sợ ! Người đang khoẻ mạnh sao lão trượng lại bàn đến chuyện chết
chóc làm chi ?
Lão trượng cùng tôi đi thăm đường đất, rồi lão trượng cứ
về đã, chung sống với tôi, bao giờ Trời Phật rước đi, sẽ hay ! Tiên sinh đừng
câu nệ, nghi ngại chi hết. Bốn bể đều là anh em cả mà !
Lương lão nắm
chặt cánh tay họ Vi, tỏ ý bùi ngùi, cảm động :
– Lão rất đội ơn chiếu cố
của Tiên sinh, nhưng lão nói vậy không phải là không tính toán, suy nghĩ, kỷ
lưỡng đâu ? Lão biết vận mệnh của mình lắm !
Vậy tiên sinh khá yên tâm,
đừng thắc mắc chi cho số phận của lão, mà cứ lưu ý lo việc riêng của Tiên sinh,
chỉ cốt sao cho khỏi lỡ làng đại sự, thì dù lão nhắm mắt, cũng được ngậm cười
nơi chín suối.
Trọn đêm đó, đôi bạn già nằm nói truyện cho tới sáng, mới
sai Vi Thành đi đun nước, pha trà, khi cơm nước xong suôi, hai người dắt nhau đi
lần vào núi sâu, trèo đèo, vượt suối, rẽ lau, vạch sậy cực kỳ vất vả, gian nan,
nhiều chỗ hiểm trở quá họ Vi lại phải nâng đở, dìu dắt hay cõng Lương lão lên
lưng mới vượt qua được những gềnh đá cheo leo, chung quanh toàn đá tai mèo nhọn
hoắt, sắc bén chơm chởm như mớ giáo gươm dựng ngược, kẻ yếu bóng vía rùng mình,
cơ hồ muốn xây xẩm mặt mày, ngã lộn nhào xuống những vượt sâu thăm
thẳm.
Đốt nến xem lại bản di chúc, Lương lão đi lần vào phía sau, tìm
được một cái rương đã gắn liền với vách Hang.
Vi Đạt dùng rìu bổ mạnh,
nắp rương bật ra, để lộ ra một gói lớn, bọc vải sơn, chằng buộc rất kỷ lưỡng
bằng gân nai. Lấy dao găm cắt đứt dây và mớ bọc vải ra, thì thấy bên trong có
một cái địa bàn, một lá cờ ngũ sắc, trên vẽ chi chít những hình bát quái và ghi
nhiều chữ triện rất dị kỳ, lạ mắt.
Trong một cái hộp đồng vuông, còn có
một con rùa đất, miệng ngậm đầy bùa chú và một lọ thủy tinh gắn kín, ngoài ghi
rõ hai chữ : cấm mở !
Cuốn gia phả được xếp gọn dưới đáy
hôp.
Trái vời sự dự đoán của hai người, cuốn gia phả của tổ phụ họ Lương
không dày lắm, mà chỉ có vỏn vẹn có 5 tờ giấy bản khổ lớn chia ra : 3 tờ đầu dạy
về phương pháp an táng, cách thức hô thần, trấn yểm, phân kim, án hướng, tờ thứ
tư là bản đồ ghi chú địa điểm rõ ràng của hai khu đất ” Lưỡng ngưu ẩm Thủy ”
phía dưới có mấy câu, viết bằng sơn đỏ chói :
” Mình nằm Ngòi
Xảo,
” Đầu gối Núi Rồng,
” Chân đạp Cầu Vòng,
” Tay dang
Nam, Bắc,
” Hạn kỳ bách nhật,
” Bột phát công khanh,
”
Huynh đệ hiển danh,
” Quyền uy nhất khoảnh…”
So với lời truyền
tụng trong dân chúng ở vùng Bắc Quang, thì mấy câu tổng kết này có hơi khác,
nhưng tựu trung, ý nghĩa cũng vẫn là ca ngợi kiểu đất ” lưỡng ngưu ẩm
thủy”.
Tờ cuối cùng, dạy về cách lễ tạ ơn, sau khi mả đã được an táng
xong xuôi, cũng như khi quán khí hoặc mỗi lúc không may bị động trệ.
Mỗi
thời kỳ phải sắm sửa lễ vật và phải theo phương pháp cúng vái khác hẳn nhau,
không thứ nào giống thứ nào hết.
Mới thoạt đọc những tên Núi Rồng, Cầu
Vồng… hai người không ai hiểu nơi ấy ở đâu, nhất là Vi Đạt, đến ngụ cư vùng
này đã khá lâu, mà vẫn tuyệt nhiên, chưa hề được nghe ai nói đến những cái tên
lạ lùng, có vẻ huyền bí thiêng liêng đó lần nào !
Nhưng nhìn kỷ vào bản
đồ, một lúc lâu, vì chữ viết nhỏ như con kiến, ông Vi Đạt mới nhận được những vị
trí trên. Thì ra Núi Rồng là ngọn núi chỉ cách dãi Cao Sơn chừng hai dặm. Còn
Cầu Vồng là cái đồi uốn cong đối diện với dãy Cao Sơn ở phía sau Bản Tỵ, chỗ nọ
cách chỗ kia hàng vài ba chục dặm.
Vi Đạt còn đang ngẫn ngơ suy nghĩ về
vị trí xa xôi, diệu vợi ngăn cách các nơi có ghi tên trong gia phả, thì Lương
lão đã hiểu rõ sự băn khoăn của bạn, vội nói ngay :
– Các Cụ dạy thế,
chỉ là có ý bảo mình phải an táng hài coât theo những phương hướng ấy, chứ có
bắt buộc mình phải đặt hài cốt gối hẳn đầu lên Núi Rồng, đạp hẳn chân lên đồi
Cầu Vồng đâu ?
Chỉ cốt đầu nằm về phía Núi Rồng, chân đạp về phía đồi
Cầu Vồng, là đủ rồi, tiên sinh ạ !
Khác hẳn sự an táng hài cốt ở những
mộ phần của thiên hạ, trong khu linh địa “Lưỡng Ngưu ẩm thủy”, huyệt chôn hài
cốt ở hai bên bờ Sông Cả là huyệt bằng, còn chính huyệt thì lại nằm giữa lòng
sâu, trên một hòn núi cao, phải trấn yêmbằng con rùa và chiếc lọ đậy kín, không
biết bên trong chứa đựng những gì, cùng lá cờ bát quái vẻ chi chít những hình
thù quái đản.
Đặc biệt hơn hết, là sau khi an táng cả hài cốt ở hai bên
huyệt bằng, lúc ấy mới được khởi sự trấn yểm huyệt chánh bằng cách đọc bài chú,
ghi ở trang cuối cùng cuốn gia phả, chờ cho nước sông đang lên mới được thả
những lễ vật xuống vào đúng nửa đêm thanh vắng.
Nếu đúng phương hướng và
cách thức trấn yểm, thì nội bách nhật, hòn núi giữa lòng sông sẽ biến mất, sau
một cơn bảo tố ngất trời.
Thế là hài cốt bắt đầu quán khí, đúng như lời
di chúc của tổ phụ họ Lương.
Trở về Ngòi Xảo được ba ngày thì Lương lão
trở bệnh, lên cơn sốt mê man chừng một trống canh, rồi bỗng mở choàng mắt ra,
nhìn quanh, có vẻ rất tỉnh táo, nắm chặt lấy tay Vi Đạt mà rằng :
– Tiên
Sinh ! Duyên bèo mây xui khiến cho lão gặp Tiên Sinh, được Tiên Sinh lấy mắt
xanh đoái tưởng, khiến cho lão lưu được chút sống thừa, vừa đủ thời gian cho lão
hoàn thành nguyện ước của tổ phụ. Đồng thời, nhờ đó, lão cũng không đến nổi uổng
phí công lao vất vả liên tiếp hơn hai chục năm trời ! Tất cả những sự may mắn
ấy, đều do bàn tay bác ái, từ thiện của Tiên Sinh, đã tận tình thương mến lão,
giúp đở lão vượt qua mọi cơn sóng gió ! Sống lão ghi tâm khảm, chết lão nguyện
sẽ phù hộ cho Tiên Sinh.
Ngừng lại một lát, Lương lão thở hổn hễn như có
vẻ mệt mỏi, đau đớn lắm, đoạn đưa hai bàn tay khẳng khiu, run rẩy lần theo gấu
áo, theo đường chỉ lấy ra một tờ giấy nhỏ cuốn dài, dấu kín ở bên trong mâng mê
đưa cho họ Vi rồi nói tiếp :
– Trước khi lìa giả cỏi đời, lão còn một
việc nữa, phải nhờ Tiên Sinh thương tình nhận lời giúp đở cho, thì lão mới đành
tâm nhắm mắt được.
GỀNH ĐÁ CÓ BỊ CHÌM SÂU DƯỚI NƯỚC THÌ MẢ MỚI BẮT ĐẦU
KẾT PHÁT…
Số là lão vâng theo di chúc của tổ phụ, sang đây tìm cuốn gia
phả và nghiên cứu kỷ lưỡng ngôi đất, đã do tổ phụ lão dày công lựa chọn, từ hơn
hai mươi năm nay, bao phen cứ tưởng phải bỏ xác xứ này, trước khi tìm được cuốn
gia phả kia.
May sao, khi lần mò tới vùng Ngòi Xảo, lại kiếm được Hang
Chua, và nhờ một sự tình cờ nữa, còn được kết giao với Tiên Sinh, để hợp tác với
Tiên Sinh, cùng hưởng chung ân lộc của Trời Phật đã dành riêng cho hai họ Vi,
Lương của chúng ta.
Có lẽ cũng vì lòng trời, mới xui khiến cho chúng ta
được gặp nhau, hiểu nhau và mến thương nhau không khác chi anh em ruột
thịt.
Dứt lời, có lẽ vì cố gắng quá, Lương lão nhắm mắt, ngất lịm đi,
thiêm thiếp mê man .
Một lúc sau, lão bừng mở mắt nhìn họ Vi tha thiết
nói thêm :
– Lão cần căn dặn Tiên Sinh một điều cực kỳ trọng hệ, có liên
quan chặt chẽ đến vận mạng con cháu chúng ta về mai hậu : là kiểu đất Lưỡng ngưu
ẩm thủy, cứ theo lời di chúc của tổ phụ lão, vốn là một kiểu đất đặc biệt, cổ
kim không co một nơi nào có được một khu quý địa như thế đâu ?
Bởi vậy,
khi lão nhắm mắt rồi, nếu có người am tường môn phong thủy, được xem qua kiểu
đất, mà có nói ra nói vào điều gì hay bàn luận, thêm bớt nào, cũng xin Tiên Sinh
thận trọng tuyệt đối không được nghe theo lời họ, vì họ chỉ biết quan sát bề
ngoài, đánh giá sự kết phát theo địa hình địa thế, chứ biết sao được những lẽ
huyền bí, kỳ ảo, phát sanh từ nơi khác, ở cách xa đây hàng vạn dậm, có lẽ cao
xa, hóc hiểm lắm, nên cá Cụ chỉ di chú lại qua loa cho mình biết thôi không cần
phải dài dòng giải thích.
Tóm lại, thầy địa lý nào, xem kiểu đất của
mình mà phân kim, án hướng, mai táng hài cốt theo lề lối thông thường của khoa
phong thủy thì nhất định sẽ bị thần linh trừng phạt tức khắc, sự kết phát trong
trường họp ấy đã hiển nhiên hõng hết, mà thầy địa lý cũng khó lòng giữ gìn được
cho vô sự.
Vi Đạt hứa làm theo lời Lương lão căn dặn. Họ Lương cảm tạ,
rồi nấc lên một tiếng, từ từ nhắm mắt lại, hơi thở nhẹ dần, rồi im
bặt.
Sau khi chôn cất Lương lão ở khu đất phía hữu sông Cả mồ yên mả
đẹp, đúng như phương pháp tổ phụ họ Lương đã ghi chép từng chi tiết nhỏ nhặt
nhất. Vi Đạt liền thu xếp hành trang đem con trai đến vùng Lĩnh Nam dò xét tông
tích thân quyến, và đem hài cốt thân phụ về Ngòi Xảo an táng.
Nhưng Vi
Đạt chỉ cải táng được phần mộ chớ không dò hỏi được tí tin tức gì của người nhà
hết, vì theo lời dân cư sở tại thuật lại, thì sau cơn khói lửa kinh khủng, khiến
Vi Đạt phải bôn tẩu giang hồ, cả thân quyến họ Vi cũng tản mát, mỗi người một
ngả, chẳng còn ai biết được họ sống chết còn mất thể nào ?
Cuối cùng, dọ
hỏi khắp nơi, thì Vi Đạt còn một người em, theo lời thuật lại của họ Phùng thì
người em này đang bị giam ở trong tù. Vi Đạt đau đớn vô cùng. Anh em phải thất
lạc bao nhiêu năm trời, khi tìm được tung tích, không ngờ em lại bị vạ gió tai
bay, mà mình bất lực, không có phương gì giải cứu. Càng nghĩ, họ Vi càng tức
bực, nhiều lúc muốn bạo động, song e quả bất địch chúng, họa hổ bất thành, chắc
lại nguy hiểm thêm cho tính mạng Vi Hoành.
Sau khi viên Tù Trưởng cùng
bọn thủ hạ áp giải kẻ bị tình nghi đi rồi, họ Phùng mới cho Vi Đạt biết rằng :
viên Tù Trưởng họ Hoàng, vốn là một kẻ tham tàng, bạo ngược, từ khi được nối
chức cha, đã gieo bao tan tóc đau thương cho dân chúng trong vùng.
Y lại
còn liều lĩnh hơn nữa, thường tìm cách xâm lấn ruộng rẫy, đem gia nhân thân tín
đến các khu rừng núi kế cận, thuộc quyền cai trị của các Lang Đạo khác, để lấy
các thứ lâm sản và săn bắn, thường xuyên gây sự bất hòa với các động ở gần quanh
Hoàng Su Phì, khiến cho dân cư bị ảnh hưởng lây, cũng luôn luôn bị các bộ lạc
thù địch đến đánh phá cướp đoạt trâu bò, thóc lúa, làm cho người dân Hoàng Su
Phì không mấy khi dám ra khỏi địa hạt.
Theo lời vợ con của họ Phùng
thuật lại thì vụ Vi Hoàng bị bắt cũng không có gì quan trọng, vì viên Tù Trưởng
chỉ tình nghi qua giáng điệu lực lưỡng, khoẻ mạnh của Hoành, chớ không hề tìm
được một bằng cớ rõ rệt nào khả dĩ chứng minh được là Hoành to rập với đám cướp
để đưa đường đánh phá họ Hoàng.
Họ Phùng bàn luận với Vi Đạt, rồi định
sáng hôm sau, sẽ thân hành lên động Tù Trưởng, để biếu lão một ít lể vật, xin
tha cho Vi Hoành.
Không ngờ sáng hôm sau, giữa lúc hai người vừa định
sửa soạn ra đi, thỉ bỗng được tin tráng đinh trong bản phi báo rằng : vào hồi
nửa đêm hôm qua, viên Tù Trưởng ở gần đấy, kéo thủ hạ đến đánh cướp dinh họ
Hoàng, giết được họ Hoàng, và toan kéo nhau vào phá kho thóc, cướp vàng bạc,
trâu bò, thì đám tù nhân, ước chừng năm chục người, toàn là những thanh niên vũ
dũng do Vi Hoành cầm đầu, tức giận, đã nổi cả lên, phá ngục thất, cưỡng hiếp đám
lính canh phòng, đoạt chìa khóa kho vũ khí rồi cùng hợp lực, kéo nhau ra đánh
đuổi bọn cướp.
Bị phản công bất ngờ, viên Tù Trưởng địch phải bỏ hết
trâu bò, thóc lúa, hô thủ hạ chạy trốn vào rừng.
Nhưng chúng cũng bị hạ
sát tới 5 tên, vứt lại nhiều giáo mác và ba con ngựa thồ.
Dân chúng và
binh linh ở động Hoàng Su Phì cảm mến ân đức ấy của Vi Hoành, hơn nữa lại quá
căm thù oán ghét Tù Trưởng họ Hoàng đã hèn nhát lại tham nhũng, nên đồng lòng
tôn Vi Hoành lên làm Tù Trưởng.
Sau đó, một thời gian ổn định. Vi Hoành
đã cho người về đón Vi Đạt lên động chơi, để anh em có dịp hàn huyên cho thỏa
lòng nhớ thương trong bao ngày lạc lõng chia ly.
Vi Đạt mừng rỡ quá, vội
sửa soạn hành trang đem Vi Thành cùng đi với người dân ở Hoàng Su Phì, lên động
thăm em, ở chơi gần nửa tháng mới cáo biệt, theo họ Hoàng đi Nước Hai, để tìm
mua mấy thứ thổ sản, đem về bán buôn cho các Hoa thương ở Hà
Giang.
Không ngờ trong chuyến du hành này, họ Vi một lần nữa, lại gặp
một điều vô cùng may mắn khác.
DUYÊN MAY NGÀN DẶM
Theo tục lệ
thổ dân ở vùng Nước Hai, tỉnh Cao Bằng, hằng năm, cứ đến cuối mùa Xuân, lại có
tục gieo cầu, trai tráng các nơi, không luận sang hèn, giàu nghèo, cứ miễn là
thanh niên khoẻ mạnh biết cưởi ngựa, bắn nỏ, thông thạo võ nghệ, đều được dự
thí, miễn được thiếu nữ nào ném trúng quả tú cầu thêu vóc hồng thì được cha mẹ
cô gái ấy, mời về nhà khoản đải, gả con gái cho, rồi dựng nhà chia trâu, chia
ruộng, gây dựng cơ nghiệp cho con rể, cho tới bao giờ vợ chồng con rể tạo được
cơ nghiệp căn bản vững vàng mới thôi.
Do đó, nhằm tiết cuối xuân, các
thanh thiếu niên trai tráng, chẳng cứ ở Nước Hai, mà co khi còn ở những vùng xa
xôi, cũng rũ nhau tìm đến dự hội gieo cầu, để hy vọng chiếm được người đẹp và có
cơ hội gây dựng cơ nghiệp lâu dài.
Năm ấy trên khu đồi gần đình quan
Lang, nơi vẫn đươc chọn làm bải gieo cầu cho những nam thanh, nữ tú, đã được
trang trí rực rỡ, khác hẳn thường lệ, vì năm nay có con gái quan Lang Nước Hai
đến tuổi gieo cầu, cũng theo chân các bạn đồng trang lứa, dự hội du xuân, để thử
xem số mạng.
Tin đó như một ánh lửa loè sáng giữa đêm khuya tăm tối, đã
có mảnh lực thu hút được hàng trăm thanh niên, đủ giai cấp ở miền sơn cước, nô
nức kéo nhau đến Nước Hai để …” tìm duyên nợ ” !
Sự nô nức đó cũng
không có gì đáng ngạc nhiên cho lắm vì con gái quan Lang, vốn nổi danh tài mạo,
tuyệt vời, nhan sắc chẳng những hoa nhường nguyệt thẹn, cá lặn, nhạn sa, mà khác
hẳn với những sơn nữ khác, các môn cầm kỳ thi họa, nàng đều làu thông, không kể
cái biệt tài võ nghệ.
Thiên hạ thường đồn đải với nhau rằng vị thiên kim
tiểu thư, con gái duy nhất của quan Lang Nước Hai, vẫn luôn luôn ăn vận nam
trang, một mình cưỡi ngựa vào rừng sâu săn bắn, đã có lần hạ luôn một lúc được
hai mảnh hổ, một con dùng tên bắn, một con nàng dùng bàn tay nhỏ bé mềm mại như
nhung để giáng một cái thôi sơn, vào giữa đầu cọp, khiến chúa sơn lâm vỡ sọ,
chết tươi, không kịp rống lên một tiếng giả biệt núi rừng.
Nhưng dù võ
nghệ vào loại bạt sơn, cử đỉnh, vị tiểu thư lá ngọc cành vàng ấy, vẫn không quên
cái địa vị cao quý của một giai nhân sinh trưởng nơi trường gấm màn the, ra hài,
vào hán, mổi lời sai bảo, trăm tiếng dạ vang, muốn gì được nấy, cha mẹ nưng niu,
chiều chuộng như trứng mỏng trên tay, nên những lúc chiều tà đối bóng, Đinh tiểu
thư thường gây một lò trầm hương ở căn lầu trông thẳng ra vườn hoa, mà nàng đã
đặt cho cái tên rất thơ mộng là Nghênh hương các, để nhìn trăng, gảy khúc đàn
tuyệt diệu, gửi tâm tình qua những âm hưởng thanh cao, du dương, thảnh thót, của
chiếc nguyệt cầm, không kém gì tiếng giây tơ huyền ảo của những tay danh cầm,
tuyệt kỹ thuở xưa, mà tên tuổi còn được lưu lại trong những áng diểm tình giai
thoại, muôn ngàn thu, còn có tác dụng rung chuyển lòng người !
Khác hẳn
lối giáo huấn khắc nghiệt của thời phong kiến, mà giá trị người con gái không
hơn gì một món đồ chơi, hay một cái máy để khi ở nhà tuỳ thuộc quyền cha mẹ, khi
xuất giá, làm tôi mọi cho chồng, dở hay sướng khổ đều không do tự mình quyết
định, vợ chồng quan Lang Nước Hai thấy con gái tài sắc vẹn toàn, công dung, ngôn
hạnh gồm đủ, văn võ gồm tài, cầm kỳ thông thạo, nên để mặc cho nàng tự kén lấy
bạn trăm năm, chứ không ép uổng con gái như những gia đình khác, vì cả hai ông
bà cũng tin rằng : Nàng có đủ trí sáng suốt tìm được ý trung nhân để trao sương
gửi thịt.
Vã lại quan Lang cũng hiếm hoi, dưới gối chỉ có một mình nàng,
nên hai ông bà cũng muốn cho nàng kén được người tuấn tài để mai sau nối nghiệp
ông cha.
CHÚA TỂ ĐẤT LẠNG SƠN
Sau khi an táng hài cốt tổ phụ vào
huyệt tả ngạn sông Cả, ở ngay cửa Ngòi Xảo, họ Vi đi buôn trên miệt Hoàng Su
Phì, gặp được em ruột là Vi Hoành bị thất lạc từ khi có cuộc biến loạn ở Lĩnh
Nam. Nhờ tài võ dũng quả cảm, Vi hoành đánh ta bọn giặc ở vùng Bắc Mục, nhân lúc
bất ngờ kéo đến cướp đoạt trâu bò, vàng bạc của dân cư sở tại, nên được mọi
người tri ân, tôn lên làm Tù Trưởng.
Vi Đạt cùng con trai là Vi Thành,
sau đấy lại qua phủ Nước Hai ở Cao Bằng để mua ngựa tốt, nhằm đúng hội gieo cầu,
được quan Lang Nước Hai kén Vi Thành làm giai tế, húa cho nối nghiệp khi từ
trần, ví quan Lang không có con trai kế tự.
Họ Vi hiển đạt, làm chúa tể
hai miền sơn cước hưng thịnh, trù phú, cha truyền con nối cho đến năm Minh Mạng
thứ tám, mới di cư qua đất Lạng Sơn, cầm đầu các động thổ dân, rất được mọi
người kính nể, tuyệt đối phục tùng.
MẢ PHÁT TO
nhưng nhiều người
bị bất đắc kỳ tử…
Khi Vi Văn Định làm Tổng Đốc tỉnh Thái Bình, nhờ có
quan Tri Châu Bắc Quang họ Cao giới thiệu, được quen biết một nhà phong thủy
chánh tông họ Triệu từ tỉnh Triết Giang bên Tàu trốn qua Việt Nam tỵ nạn, sau
cuộc âm mưu khởi nghĩa định lật đổ đế chế Mãn Thanh bị thất bại, khiến cho một
số lớn đồng chí của họ Triệu phải rơi đầu trước lưỡi gươm đẩm máu tàn bạo của
bọn vua quan nhà Thanh, không ngần ngại gì, thường thẳng tay chém giết những
người Trung Hoa, không chịu theo chúng, để củng cố chiếc ngai vàng mục
nát.
Vi Văn Định tiếp đải họ Triệu rất trọng hậu, dùng lể thượng khách
đối xử một cách cực kỳ cung kính.
Họ Triệu thấy Định đang đắc thời, đắc
thế, được người Pháp tin dùng, tuy chỉ cầm đầu có một tỉnh, mà quyền uy khét
tiếng khắp nơi, hách dịch như một vị tiểu vương, nghênh ngang một mình một cỏi
biên thuỳ, nên muốn được sống yên thân nơi xứ lạ cũng hết lòng cung kính, tận
tâm, tận lực phụng thừa Vi Văn Định, coi Đinh như thần hộ mạng, có đủ thế lực
che chở cho mình trong lúc sa cơ thất thế.
Bởi vậy, khi được Định đưa
lên Ngòi Xảo phúc lại ngôi mả tổ tiên tả ngạn dòng sông Cả, họ Triệu đã một mình
lăn lội vào rừng thẩm, núi cao, tận dụng tài học sở trường về môn phong thủy, để
nghiên cứu kỷ lưỡng, địa hình, địa thế khắp vùng “Lưỡng Ngưu ẩm thủy”, tới gần
nửa tháng trời, mới nói cho Vi Văn Định biết rằng :
– Quả đúng là đất
đại quý, sự kết phát sẽ bền vửng lâu dài bất cứ triều đại nào, họ Vi cũng được
coi là anh hùng một cỏi giang sơn riêng biệt.
Nhưng so sánh hai ngôi mộ
ở tả hữu ngọn sông Cả trong vùng Ngòi Xảo, thì mả của họ Lương đắc dịa hơn
nhiều.
Cứ nhìn qua bề ngoài của hai ngôi mộ, người không biết gì về khoa
địa lý cũng có thể phân biệt được sự hơn kém : mả tổ phụ họ Lương không cần
trông coi, bồi đắp mà quanh năm, lúc nào cũng to lớn, nổi cao lên như một cái
đồi nhỏ, cỏ mọc xanh rờn, dây leo chằng chịt, trông xa như một tấm thảm nhung
biếc, đẹp mắt vô cùng.
Còn mả tổ họ Vi, dù thường xuyên vẫn có gia nhân,
canh gác, đắp đất, rẩy cỏ rất cẩn thận mà cỏ vẫn kém tươi, mộ phần cũng chỉ bằng
tám phần mười ngôi mả của họ Lương, mặc dù phong cảnh cũng xinh đẹp lạ lùng. Sở
dĩ có sự khác biệt ấy, theo sự nhận xét của nhà phong thủy họ Triệu, thì nguyên
do chỉ là vì con hỏa nằm án ngữ cách minh đường ngôi mộ chừng nữa
dậm.
Đó là một gò đất nổi lên, nằm trơ vơ phía trái miếu sơn thần, chạy
thoai thoải đến gần mộ phần, trong giống như một mủi dùi nhọn đâm thẳng vào ngôi
mả.
Vì thế, sự kết phát bị giảm súat mất một phần nhỏ.
Không
những thế, nó còn là điềm bất đắc kỳ tử cho nhiều người trong họ nữa.
Vi
Văn Định lo sợ, vội năn nỉ tha thiết yêu cầu thầy địa lý tìm cách trấn yểm giúp
cho con Hỏa không nổi dậy, tác quái, nhiểu hại cho con cháu trong dòng họ, nhưng
họ Triệu khăng khăng từ chối và cho biết : con Hoả ấy nằm sát long mạch, không
có phương thế chi để diệt trừ, hay trấn áp được hết, vì chỉ hơi động đến là long
mạch bị thương tổn ngay tức khắc , chẳng những không có lợi chi mà còn có thể
gây thêm nguy hại cho sự kết phát sau này, uổng phí cả tâm cơ của tổ tiên ngày
trước.
Vả lại, cứ như sự suy luận của họ Triệu thì các kiểu đất quý,
phần nhiều đều có một vài nét khuyết điểm, nhẹ nặng tuỳ theo phước trạch của ông
cha, đó là luật thừa trừ rất nhiệm mầu kỳ bí của Hoá công, chứ chẳng mấy khi
được toàn mỹ, chỉ có kết mà không có đọng trê bao giờ
Chỉ cốt sao cho sự
kết phát được nhiều hơn sự nguy hại, cũng đã là một điều đại hạnh cho gia chủ
lắm rồi !
Ta không nên đòi hỏi quá nhiều mà vô tình cưỡng lại mệnh trời,
tạo thêm sự thất đức, làm giảm bớt cả tính cách linh ứng của kiểu đất hiếm có,
mà dám chắc, trên cỏi đời này, chưa chắc đã tìm được một kiểu đất tương tự thứ
hai !
Cuối cùng muốn an ủi quan Tổng Đốc Thái Bình, họ Triệu đã đem
nhiều chuyện thi ân, bố đức, cầu phước, khuyến thiện ra nói với dụng ý kín đáo,
ngầm khuyên Vi Văn Định nên tu nhân, tích đức, làm điều lành, tránh điều dữ, để
may ra có thể cứu vãn được phần nào sự nguy hại do con Hoả gây ra cho con cháu
họ Vi.
Những lời khuyên kín đáo của thầy địa lý Tàu như bị rơi vào sa
mạc, vì như ai nấy đều biết : Vi Văn Định khi còn nắm quyền sinh sát ở tỉnh Thái
Bình, cũng như sau đấy, ở tỉnh Hà Đông, vẫn luôn luôn thẳng tay sát hại đồng bảo
lương thiện, nhất là những nhà cách mạng nuôi chí lắp bể vá trời, muốn đánh đuổi
thực dân,để khôi phục nền độc lập cho giang sơn tổ quốc.
Muốn được mẫu
quốc ghi công để ban thưởng cho mề đay, kim khánh, tiến chức, thăng quan nhanh
chóng hơn diều gặp gió. Vi Văn Định đã chẳng chút ngại ngần, trút hết cả mọi nổi
khổ lên đầu các chiến sĩ cách mạng, sáng chế ra nhiều loại hình phạt, cực kỳ dã
man hiểm độc, đến nổi chỉ nghe nói qua đến những thủ đoạn của họ Vi làm Tổng Đốc
tỉnh này, người yếu bóng vía cũng đã thấy rùng mình sởn gai óc.
Bà con ở
Thái Bình di cư vào Nam, hẳn còn nhớ thời kỳ họ Vi làm Tổng Đốc, đã có ra một
nghiêm lịnh quái ác : triệt để bắt các hương lý chức dịch các làng xóm phải diệt
cho kỳ được loai bèo Tây, mà có nơi quen gọi là sen Nhật Bản, một giống bèo có
sứ bành trướng mạnh mẽ phi thường, sinh sôi nẩy nở nhanh chóng, nhiều vô số kể
trong một thời gian ngắn ngủi, có rễ dài, nổi lềnh bềnh trên mặt nước cả hoa màu
tím và lá màu xanh mới trông cũng khá đẹp mắt.
Nhưng vì nó sinh sản
nhiều quá lẹ quá, nên vẻ đẹp thuở ban sơ, đột nhiên biến mất, để nhường chỗ cho
sự chán ghét trong tâm khảm mọi người.
BÁC SĨ T. EM RUỘT VI-VĂN-ĐỊNH BỊ
NGỰA DẨM CHẾT DƯỚI LÒNG SUỐI
Theo lời những ông già, bà cả kể
lại, thì khi thứ bèo hoa tím, lá xanh, hình cánh quạt mới xuất hiện tại biển
đông nhiếu nhà quan quyền ,phú hộ, cường hào đã không quản ngại tốn kém, mướn
người đi lấy về để thả trong bể, cho bèo nổi trôi quanh hòn non bộ, giống hệt
những chiếc thuyền bồng bềnh giữa bể khơi, coi đó như một môn giải trí thanh
cao, thích thú cho những người giàu sang, nhàn rỗi.
Nhưng người đời, xưa
nay vẫn ham tân, chuộng lạ, chỉ say sưa mê thích những cái gì khan hiếm ít khi
tìm thấy được dễ dàng ở trên thế gian, chớ nếu nơi nào cũng đầy rẩy, chất đống
cao như cây rơm , cây rạ ở thôn quê, thì còn có nghĩa lý gì.
Giá trị nó
lúc ấy, quả thật không còn đáng được nửa đồng.
Thứ bèo Nhật Bản kia cũng
vậy !
Những gia đình quyền quý, thừa tiền, thừa bạc, khi thuê người đem
thứ bèo đó về thả vào bể nước, thấy nó sinh con đẻ cháu nhanh chóng, mạnh mẽ lạ
lùng, lúc đầu còn vui thích, sung sướng, nâng niu, lấy giống đem thả xuống hồ,
xuống ao.
Chỉ mấy hôm sau, hồ, ao cũng đầy ứ loại hoa tím lá xanh, khiến
chủ nhân không còn muốn “thưởng thức” cái loại hoa kỳ lạ đó nữa.
Hơn
thế, những loại rau muống hay sen trắng, sen đỏ trồng sẳn ở trong hồ ao từ
trước, lại còn bị thứ bèo mới tới lấn át, đến phải héo hắt, chết dần, chết mòn,
suốt lượt.
Thứ bèo trồng chơi từ bể nước, vì vậy đã bị mất địa vị danh
hoa, phải đem ra quăng cả ra hồ ao, cống rãnh.
Và kỳ lạ hơn hết, là ở
đâu, bất cứ rạch bần ao rộng hẹp thể nào, giống bèo đó cũng sinh sản nhanh hơn
cỏ dại.
Người ta vứt ra ngoài ruộng chiêm ngập nước thì chỉ vài ba hôm
cả cánh đồng đã tím ngắt màu… sen Nhật Bản.
Thuở bấy giờ nhằm kỳ nghỉ
lể, em ruột quan Tổng Đốc Thái Bình là Bác sĩ Vi Văn T… được nghỉ mấy hôm, về
thăm quê nhà ở Lạng Sơn, một hôm Bác sĩ T. cưỡi ngựa dạo chơi quanh vùng, khi
vượt qua một con suối nông cạn mà mực nước không ngập quá gối, Bác sĩ T. lại bị
ngã ngựa, rồi bị ngựa cuống quít dẫm chết luôn ở giữa lòng suối.
Mọi
người chung quanh đấy vội đổ xô đến cứu cấp, nhưng không kịp.
Thì ra con
ngựa của Bác sĩ T. lúc lội qua suối, bị vướng phải rễ bèo tây, cuống cẳng nên
ngã quỵ ngay xuống suối, quăng luôn cả Bác sĩ T. xuống nước.
Khi con
ngựa vùng vẫy thoát khỏi đám rễ bèo, nó lại hoảng hốt lội mau lên bờ, chẳng ngờ
rủi ro làm sao, lại dẩm bẹp ruột Bác sĩ T. khiến Bác sĩ T. chết liền không kịp
kêu cứu.
Tin dữ bay xuống tỉnh Thái Bình, làm cho Vi Văn Định tức giận
như kẻ điên cuồng, phần thương tiếc đứa em mới thành tài, chưa kịp hưởng thụ
đúng mức sự giàu sang cho bõ công học hành vất vả, đã phải bỏ mình vì một tai
nạn không có nghĩa lý gì, nên ngay lúc ấy, liền hạ lệnh cho tất cả tổng lý,
hương chức các làng xã trong toàn hạt Thái Bình phải trừ tiệt loại bèo tây, nơi
nào trái lệnh, sẽ bị nghiêm trị theo pháp luật.
Các hương lý, chức dịch
thôn quê ở Thái Bình lúc bấy giơ thật đã vô cùng điêu đứng, khổ cực, trước cái
lệnh quái gỡ của vị quan đầu tỉnh, vì giống bèo tây sống dai hơn đĩa đói, dù vớt
lên bờ phơi khô, mà các bèo gặp trời mưa to, trôi xuống hồ ao cống rãnh, vẫn có
thể hồi sinh, đã đẻ ra con, ra cháu, nhiều vô số kể và nhanh như chớp. Vì vậy,
cứ vớt sạch được chỗ này, thì chỗ kia đã lại có bèo mọc. Nhiều nơi dân chúng
không còn làm ăn được gì nữa mà chỉ lo đi vớt bèo cũng vẫn không
xong.
Nhiều đêm, quan Tổng Đốc đã bất thình lình, mặc thường phục vi
hành đến thăm các làng tổng, thôn xóm xa xôi trong địa phương, nếu thấy nơi nào
còn sót ít nhiều bèo tây trong hồ ao, là lý dịch sở tại bị gọi ngay ra đình, cho
quan đầu tỉnh sĩ vã chẳng tiếc lời và nọc nằm thẳng cẳng trên nền gạch, bắt lính
hầu phải dùng ba toong to bằng cườm tay, quật cho quắn đít, liền chỉ hồ điệp
hàng hai ba chục chiếc đến nứt da, nứt thịt, máu me chảy đầm đìa, mới chịu buông
tha cho các nạn nhân sau khi đã buông thêm lời cảnh cáo : nếu còn tái phạm, sẽ
bị trừng trị nặng nề ghế ghớm hơn nhiều.
Tiếng tàn ác của Vi Văn Định
lan rộng khắp nơi. Nhiều đoàn thể chánh trị, thấy y lợi hại quá, e trở ngại cho
các hoạt động của các đảng phái yêu nước, đã tìm cách để ám hại y, nhưng lần nào
Vi Văn Định cũng thoát chết.
Hôm mới được tin em ruột chết trước một tai
nạn hầu như quá vô lý, vì người nào đã từng ở Lạng Sơn, hay có qua đó một vài
lần, cũng phải công nhận rằng : con suối mà Bác sĩ Vi Văn T. đã cưởi ngựa vượt
qua mực nước thực sự chỉ sâu chừng hai gang , đứng trên bờ, bất cứ giờ nào cũng
trông rõ cả lớp cuội trắng nằm lấp lánh dưới đáy .
Vậy mà khi Bác sĩ T.
cho ngựa lội xuống suối, lại bị rể bèo quấn cẳng, khiến con tuấn mả của họ Vi,
vốn khét tiếng là giống ngựa tốt, phải ngã quị, quăng luôn cả chủ nhân xuống
nước.
Lạ lùng làm sao, là khi bị té nhào, xuống suối, Bác sĩ T. lại
không thế nào đứng vùng lên được, mặc dầu ngày thường, Bác sĩ T. rất khoẻ mạnh,
ham chuộng tập dượt chạy nhảy, lại thêm am hiểu cả võ Tây và võ Nhật. Bác sĩ cứ
nằm chịu trận dưới lòng suối cho đến lúc bị con ngựa dẩm chết mà vẫn không có
một ai biết hết.
Cho mãi tới khi con ngựa theo đường cũ chạy về nhà,
người nhà họ Vi thấy con ngựa hí vang rầm, khắp mình ướt sủng nước mà Bác sĩ T.
lại không cùng về, nên lo sợ chia nhau đi tìm kiếm khắp nơi.
Một bọn gia
nhân vừa ra tới bờ suối, đã thấy Bác sĩ T. nằm thẳng cẳng dưới lòng
nước.
Chúng hè nhau lội xuống đem lên bờ, thì Bác sĩ đã tắt thở tự bao
giờ, thân thể lạnh toát khắp mình, bị vó ngựa dẩm xây xát, tím bầm.
Sau
khi nhận được hung tinh, Vi Văn Định la hét vang dinh Tổng Đốc Thái
Bình.
Lúc đầu, Định chỉ tưởng là một tai nạn rủi ro : nhưng sau phút cáo
giận, y chợt nhớ tới lời tiên đoán của thầy Địa lý năm nào, khi được mời đến
Ngòi Xảo để phúc lại phần mộ Tổ phụ an táng trong kiểu đất ” Lưỡng Ngưu ẩm thủy
“, y mới giật mình, hoảng sợ, vội đi tìm cuốn gia phả coi lại những lời ghi chú
về nơi đất quý địa ấy.
Thì rõ ràng, tổ phụ họ Vi cũng đã có dặn lại, là
sự động trệ sẽ kèm theo với sự kết phát để trong dòng họ, luôn luôn có người bị
bất đắc kỳ tử do con Hỏa ở trước mộ phần gây ra.
Vi Văn Định tức bực, vỗ
án rầm rầm, muốn lên ngay Ngòi Xảo để cải táng ngôi mả tổ đi, vì y được thấm
nhuần ít nhiều Tây học, không tin mạch đất lại có thể giáng phúc, tạo được sự
kết phát cho con cháu lâu dài.
Y viết thư gửi cho các em, nói rõ ý định
ấy, làm cho em ruột y là Vi Văn L., Tri Phủ Nước Hai hoảng sợ, phải dùng ngay xe
hơi nhà, đi suốt đêm về Thái Bình để ngăn cản ý định điên rồ ấy của
Định.
Sau khi thấy anh đã nguôi giận, Vi Văn L. liền giới thiệu với Định
một thầy Dịa lý nguyên quán ở miền Trung, lúc đó đang ngồi dạy học tại nhà quan
Phủ Nước Hai, để ủy thác cho người này tìm phương trấn yểm con Hỏa.
Vi
Văn Định cho em biết là trước kia, y cũng đã cho người phúc lại ngôi mả và yêu
cầu người ấy trấn yểm con Hỏa, song nhà phong thủy Trung Hoa này viện cớ con Hoả
nằm liền sát long mạch, nếu động tới, e sẽ làm thương tổn cho sự vận chuyển của
mạch đất.
Vi Văn L. nhất định, tin tưởng vào tài ba của thầy Địa lý miền
Trung nên hết lời phân trần với Định, để xin về đưa nhà phong thủy qua Ngòi Xảo
làm bùa phép trấn yểm. Nễ em qua, Định đành phải nghe lời, cho phép Vi Văn L.
được trọn quuyền hành đông.
* Địa lý có phải là hoang đường như nhận xét
thiển cận của số người vẫn tự nhận là … Tân học không ?
* Chôn nơi
tốt, hài cốt nở ra bóng lộn có khi kết thành tượng, chằng chịt tơ
hồng.
* Táng nơi xấu, xương bị hao mòn dần, lâu ngày thành đất
vụn.
NHƯ MỘT BÌNH ĐIỆN…
Vừa trở về đến Nước Hai quan Phủ Vi
Văn L., sai lính hầu đi mời ngay thầy đồ Nghệ đến tư thất, nói rõ cho nhà phong
thủy biết sự hoài nghi của anh ruột mình về tính cách động trệ do ngôi tổ mộ
được kết phát ở Ngòi Xảo gây ra, để yêu cầu thầy địa lý kiếm cách trấn áp con
Hỏa, cho dòng họ Vi từ nay, tránh khỏi nạn bất đắc kỳ tử.
Nhà phong thủy
xứ Nghệ An, ôn tồn đáp :
– Nhiều người được thấm nhuần Tây Học thường
nghi ngờ môn địa lý, cho đó là một sự mê tín dị đoan, chứ một khi đã chết rồi,
người khôn ngoan đến đâu, cũng chỉ là một mớ xương khô, theo năm tháng thời
gian, mục nát với cỏ cây, hỏi còn biết gì là giáng phúc hay gieo họa cho con
cháu nữa. Không cứ quan Tổng Đốc Thái Bình mới không tin việc linh ứng của mồ
mả, đất cát, mà bất cứ một người nào, từng có ít nhiều cơ hội tiếp xúc với nền
văn minh Tây Phương, cũng đều có ý nghĩ như thế cả.
Đó quả thực là một
sự xét đoán sai lầm đáng tiếc, mà nếu chịu khó suy nghĩ ra sẽ thấy ngay sự nhận
xét nông cạn, hầu như bất công của những người Tân Học đa nghi.
Ngay từ
khi mới bắt đầu nghiên cứu về môn phong thủy, tôi (lời thầy địa lý) đã được sư
phụ tôi cho biết rằng : địa lý hay nói cho đúng hơn, là môn địa ý, chỉ là một
khoa học, căn cứ vào sự thuận mát đúng như ý muốn của mọi người nghĩa là phải
chú trọng vào sự cân đối sáng sủa phong quan, có núi non, gò đống có cây cối,
sông ngòi.
Ví vụ một người ngồi ung dung nơi thư phòng, thì trên ghế
ngồi phải có tay dựa mà thiên hạ quen gọi là tay ngai, đàng trước mặt phải có án
thư, phí sau phải có chỗ tựa lưng.
Thi hài nằm dưới đất cũng thế, Chánh
huyệt là nơi an nghĩ ngàn thu, cũng phải trông ra một nơi quang đảng, sơn thủy
hửu tình, đó là án minh đường, nói theo danh từ chuyên môn của khoa phong thủy,
sau lưng phải gói vào gò đống kỳ khu, đó là hậu trẩm.
Còn tay ngai đễ
tựa hai tay là tay long với tay hổ.
Cứ tìm được nơi nào, có đầy đủ những
điều kiện cốt yếu như vậy thì ngôi mả nhất định sớm muộn gì cũng phải kết phát
không thể nào sai chạy được.
Người Âu Mỹ dù không tin sự linh ứng của mồ
mả nhưng không phải như thế có nghĩa là họ chẳng chú trọng gì đến môn địa lý đâu
?
Sự thực, khi họ làm nhà, họ cũng vẫn luôn luôn xây dựng dinh cơ trên
những thửa đất vuông vắn, quang đảng, trông về những hướng mát mẻ, để hưởng thụ,
gió sớm, trăng khuya.
Mà nhà cửa nào có khác gì phần mộ đâu, vì nó cũng
đem lại kết quả tốt đẹp hay ảnh hưởng nguy hại cho chủ nhân nếu gặp những khu
đất làm nhà hợp ý hoặc miển cưỡng.
Còn về sự kết phát hay động trệ tại
đó cũng là việc rất thường, không thể gọi được là huyền bí, mờ ám chi hết
!
Như ai nấy đều biết giữa người sống và người chết, cùng chung một
huyết khí, bao giờ cũng có sự thông cảm trực tiếp với nhau.
Do đấy, nếu
hài cốt được an táng vào một nơi đẹp mắt, tiền, hậu, tả, hửu đều có những phong
cảnh kỳ khu tươi tốt, thì lẽ tất nhiên mớ xương khô nằm đó, cũng được thấm nhuần
linh khí thiên địa, phát sanh được những “tia điện” thiêng liêng, để truyền thứ
tú khí đó cho con cháu, hay những bà con thân thích, có liên hệ huyết thông với
người nằm dưới đáy mộ.
Nếu có thể ví dụ mà không sợ sai lầm, thì thi hài
chôn trong lòng đất, được coi như một bình điện, tốt xấu, mạnh yếu tuỳ theo địa
thế mộ phần, để có thể phát xuất những “luồng điện”, đem lại sự kết phát hoạt
động hổ trợ cho người sống.
Chinh bởi sự kết phát hay động trệ ấy, mà
nảy sanh ra những chuyện ly kỳ có khi đến quái đản, gần như chuyện hoang đường
thời Phong thần, khiến cho những “Ông Tân thời” mới căn cứ vào đấy để chỉ trích,
dè biểu, chế giểu.
Họ có biết đâu rằng : bộ xương khô, một khi được an
táng vào một khu địa huyệt đẹp mắt, có sự an bài sắp đặt kỳ dị của hóa công, sẽ
phát xuất một sức mạnh kỳ ảo mà tôi (vẫn lời thầy địa lý) dám chắc, không có một
luồng điện nào ở trên cõi đời này lại có thể hùng mạnh bằng và có thể so sánh
kịp !Cũng
vì thế, mới xui khiến ra những sự kết phát lạ lùng : đang từ một kẻ ngu si dốt
nát, trong một sớm một chiều, đã “phúc chí tâm linh” biến thành một người thông
minh xuất chúng, có biệt tài thay đổi thời cơ, lật ngược hoàn cảnh, hay đang
nghèo mạt rệp, đói khát, khổ sở, chợt gặp gỡ những điều may mắn dị thường để
thay đổi hẳn địa vị nghèo khổ thành giàu sang, phú quý !
Trái lại, nếu
mả động, thì sự nguy hại cũng nhanh chóng không kém : người khỏe mạnh bỗng lăn
ra chết bất ngờ , hoặc mắc phải những chứng bệnh hiểm nghèo không có một thứ
thuốc men nào chửa khỏi, vậy mà chỉ cải táng được mộ phần là lập
tức
bình phục ngay trong nháy mắt.
Hài cốt táng nơi tốt sẽ nở
ra, bóng lộn, có khi kết thành tượng. Chôn phải đất xấu, sẽ bị hao mòn dần, có
khi biến thành đất vụn.
Chuyện mả chôn trong bụng một con ngựa đá dưới
sông, của ông Đinh Bộ Lĩnh ngày xưa, tuy thuộc vào loại hoang đường, song nghĩ
cho kỹ, cũng không phải là hoàn toàn vô lý vậy !
Có những chuyện dị kỳ
xảy ra, mới co thể minh chứng được sức mạnh của các ngôi mả kết phát hay động
trệ !
Thầy địa lý nói tiếp : nếu không do ngôi mả gây ra, thì sao ” quan
đốc” lại có thể bị chết đuối, khi vướt qua một con suối, chỉ nông chưa tới gối
mà hàng ngày trâu, ngựa vẫn lội qua từng đám một cách rất dễ dàng ?
Quan
Tri Phủ Nước Hai Vi văn L. chăm chú ngồi nghe lời giải thích của nhà phong thủy
vả ngỏ ý mời thầy địa lý ngay sáng hôm sau, đi Ngòi Xảo làm lể trấn
yểm.
Đích thân Vi Văn L. hướng dẫn nhà phong thủy đến Ngòi Xảo, đưa đi
coi tường tận cả hai ngôi mả tổ của họ Lương và họ Vi.
Thầy địa lý lặng
lẻ theo chân quan phủ Nước Hai, chăm chú quan sát địa hình, địa thế các nơi,
nhất là gò đất có con Hỏa nằm đâm thẳng vào tổ mộ họ Vi, đoạn chỉ tay về phía
ấy, mới nói Vi Văn L. rằng :
Vừa đi quan sát một lượt quanh khu tả ngạn
Sông Cả, nhà phong thủy xứ Nghệ đã lắc đầu nói vơi Vi Văn L. sau khi đã lần đốt
tay tính toán :
– Kiểu đất quý thiệt !
Nhưng sự tác hại của con
Hỏa nằm trước mộ phần, quả cũng vô cùng ghê gớm.
Nếu không trấn áp được
gò đất ấy, thì cứ 15 năm trong dòng họ Vi, thế nào cũng lại có một người bị bất
đắc kỳ tử mới thôi.
Đấy kìa, quan lớn thử trông : con Hoả nằm án ngữ
minh đường, chỉa thẳng mủi nhọn vào chánh huyệt, nào có khác gì một người cầm
dao sắt, đâm vào cổ người nằm ở trong ngôi mộ này ! Nhu thế, hỏi con cháu mà làm
sao sống yên ổn được.
Vi Văn L. lo lắng nhìn nhà phong thủy hỏi vộ
:
– Nhưng thầy thử coi kỹ giúp ! xem chi nào trong dòng họ Vi bị nạn bất
đắc kỳ tử ấy ?
Thầy địa lý lắc đầu :
– Chua thể nói đích xác
được. Còn việc trấn yểm cũng cần phải chờ xem xét kỹ lưỡng hơn nữa rồi mới có
thể định liệu được.
Công việc chưa biết sẽ còn phải kéo dài tới mấy
hôm.
Vậy nếu quan lớn bận công vụ, thì xin mời Ngài cứ về phủ trước đi.
Tôi ở lại đây, sau khi hiểu rõ địa hìng địa thế sẽ tự ý lo liệu việc trấn yểm ,
quan lớn bất tất phải mãi công chờ đợi làm chi cho phí thời giờ vàng ngọc của
Ngài.
CON HỎA
Một gò đất dài, như một mũi giáo nhọn, đâm vào cổ
người nằm trong mả, nếu không trừ được, cứ 15 năm, lại có một người trong họ bị
bất đắc kỳ tử.
Vi Văn L. gật đầu ưng thuận :
– Ừ được ! thầy nói
thế cũng phải ! Ta xin nghe theo. Nhưng muốn cho thầy có người sai bảo, ta xin
lưu lại đây hai tên lính tâm phúc, toàn là người trong họ của ta đã theo hầu ta
từ trên mười năm nay. Thầy có thể phóng tâm tín cẩn mà không cần phải đề phòng,
ngần ngại chi hết.
Dứt lời, L. từ giả lên ngựa cùng đoàn tùy tùng quay
về Nước Hai.
Ngay đêm ấy, nhà phong thủy lần ra mả, làm phép hô thần rồi
chôn ngay dưới chân con Hỏa, một chai thuốc, mà lão đã bí mật đem theo từ phủ
Nước Hai để hy vọng có thể làm tiêu thổ cái gò đất nguy hiểm đó.
Khi lảo
trở về đến nhà viên chánh tổng sở tại được dùng làm nơi tạm ở Ngòi Xảo, thì gà
rừng đã gần gáy rạng đông..
Lão mỏi mệt, vội lên giường ngủ thiếp đi lúc
nào không biết.
Tối thứ hai, lão lại lần ra mả, tiếp tục làm lể trấn
yểm, nhưng sớm hơn đêm trước, lúc lão trở về nhà viên chánh tổng, thì trống canh
ngoài điểm mới điểm có bốn tiếng.
Lão ngồi uống tàn một ấm trà tàu, rồi
lên giường nằm nghỉ.
Mơ màng lão thấy như có người gọi đích danh lão rồi
một vị lảo trượng, đầu râu tóc bạc, bỗng xuất hiện, cầm chiếc roi mây, chỉ thẳng
vào mặt lão, mà lớn tiếng mắng rằng :
– Thằng kia ! Mi cậy mình pháp
thuật cao cường, ý muốn giúp kẻ dữ, định cưỡng lại mệnh trời sao ?
Mi
phải biết rằng : tổ phụ họ Vi tu nhân tích đức, nên Thượng đế mới ban phước cho
chúng ngôi đất quí, dưới quyền ta cai quản vùng này.
Nhưng từ hai mươi
năm trở lại đây, con cháu họ Vi bỗng thay lòng, đổi dạ, giết người, hại kẻ hiền
lương, nên con Hoả mới có cơ hội, vùng lên : để vật chết những kẻ tham tàn, bạo
ngược.
Đó là lẽ trời chí công, chí chính mà mi là kẻ từng đọc sách thánh
hiền, phải hiểu rõ luật phước họa, ân oán ấy, chứ có đâu lại nhắm mắt làm liều
như hành động của mi từ hôm qua tới bây giờ ?
Trước khi tới đây, ta cảnh
cáo mi, ta đã hiển linh phá tan cả bùa phép của mi rồi đó !
Dứt lời, một
trận gió ào ào cuốn tới, trong chớp mắt, vị lão trượng biến đâu mất tích
!
Bàng hoàng tỉnh giấc, thầy đồ Nghệ toát mồ hôi cùng mình, vì lão biết
đó không phải là mộng mị hảo huyền, mà có lẽ đã do một nguyên nhân thần bí nào
xui khiến.
Với niềm thắc mắc nặng chĩu trong tâm khảm, thầy địa lý trằn
trọc mãi, không sao ngủ lại được, bất đắc dĩ đành phải trở dậy, chong đèn thức
tới sáng.
Mặt trời vừa lấp ló ở dãy núi sau miếu Chúa, thầy địa lý đã
chỉnh tề khăn áo, đi ra ngoài tả ngạn sông Cả với sự hồi hộp lạ lùng trong trí
óc.
Vừa đến nơi, lão kinh ngạc, suýt kêu lên một tiếng thất thanh, khi
thấy chỗ chôn chai thuốc với bùa chú, ở ngay dưới chân Con Hỏa, một địa hình dài
và nhọn như một chiếc giáo khổng lồ, nằm im lìm trước tổ mộ họ Vi, chỉ còn là
một hố sâu hoắm, bùn đất tung tóe, lẫn lộn với những mảnh bùa chú và mấy vị
thuốc đặc biệt, không hiểu vì lý do gì, bị tan vỡ nát vụn từng mảnh nhỏ như cát
bụi, hình như do một bàn tay kỳ ảo nào đào bới, phá hủy vậy.
Cúi rạp
nhìn xuống hố sâu, thầy đồ Nghệ chỉ thấy đen ngòm, không biết nông sâu thế nào,
liền bẽ vội cành cây, đâm thẳng xuống hố.
Chiếc hố cơ hồ như không có
đáy, sâu ngập hết cả cành cây khô dài ngoằn, mà vẫn chưa tới đất, phía dưới cơ
hồ vẫn còn bị trống rỗng !
Lão còn đang nghi ngờ, định kiếm cho kỳ được
một sợi dây dài, buộc một đầu bằng một hòn đá nặng, để thả xuống hố sâu, hầu đo
lường mức sâu nông của nơi chôn bùa phép, thì chợt từ dưới hố sâu, hình như phát
xuất giữa lòng đất, một tiếng nổ lách tách như pháo tép, rồi có tiếng rào rào
như tiếng nước sông gầm thét khi con đê bao quanh bị phá vở, rồi từ dưới hố sâu,
một luồng khói xanh cuồn cuộn bốc lên, khét lẹt như mùi thuốc súng, mơ hồ giống
hệt hình thù một con hổ kết họp toàn bằng sương khói.
Hoảng hốt, thầy
địa lý vội lùi lại phía sau mấy bước, toàn thân run bắn như người bị sốt rét ngả
nước lâu ngày.
Sau một phút định thần, lão mới bàng hoàng chợt tỉnh,
vùng đứng phát lại, hai mắt trừng trừng nhìn thẳng xuống lòng hố sâu, rồi nghiến
răng cắn lưỡi, phun máu vào giữa luồng khói mờ ảo, tay bắt quyết ngũ lôi, miệng
niệm thần chú lầm rầm.
Trong một phút chốc, giữa lúc trời quang mây tạnh
mặc dầu ở trên đỉnh núi vấn vương rất ít nhiều sương lam cũa miền rừng núi, bỗng
từ trên không trung, nổi lên liên tiếp năm tràng sấm inh ỏi, xé trời.
Và
kỳ lạ hơn hết, tất cả sấm sét đều như hướng hết về phía hố sâu giáng
xuống.
Luồng khói xanh mờ ảo, chợt đứng yên một chỗ, mơ hồ cuồn cuộn
trên miệng hố.
Đồng thời, từ dưới lòng đất, những tiếng nổ rì rào, lẹt
đẹt cũng im bặt.
Thầy địa lý đang hí hỡn mừng thầm là pháp thuật của
mình đã chế ngự được tác quái của Con Hỏa, thì bỗng lại có tiếng nổ to như muốn
phá toang lòng đất, rồi luồng khói như được một sức mạnh kỳ diệu trợ lực lại
tiếp tục bốc lên cuồn cuộn như trước, mà trái lại còn có phần hung hản, hùng
mạnh hơn trước nhiều.
Thầy địa lý rùng mình, toàn thân ớn lạnh, gai óc
nổi cùng người, đang luống cuống chưa biết phải đối phó thế nào, thì cảm thấy
mắt hoa, đầu váng, lảo đảo một lúc lâu, rồi ngả lăn quay bên miệng hố, ngất
lịm.
Đang lúc lão mơ màng thần hồn như phiêu diêu cảnh non bồng, nước
nhược, chợt văng vẳng có người lay gọi bên cạnh, liền mở mắt nhìn quanh và ngạc
nhiên xiết bao, khi thấy quan Tri Phủ Nước Hai Vi Văn L., cùng đoàn tuỳ tùng
đang sớn xác, lo sợ săn sóc bên mình.
SAU HAI ĐÊM TRẤN YỂM CON
HOẢ
NƠI CHÔN BÙA PHÉP BỊ ĐÀO PHÁ TUNG TOÉ.
Từ giữa lòng
đất, bốc lên một luồng khói mờ ảo vô cùng kỳ dị.
Thì ra quan
phủ Nước Hai, dù bận công vụ phải về phủ, nhưng sau hai ngày nóng ruột quá, lại
cùng đám gia nhân, cưỡi ngựa qua Ngòi Xảo, để xem kết quả việc trấn yểm của Thầy
đồ Nghệ ra sao ?
Không ngờ lúc đến nơi, vào nhà viên Chánh Tổng không
thấy có ai, quan Phủ đoán là nhà phong thủy đã ra thăm mộ phần, nên vội giắt
lính hầu đi thẳng đến tả ngạn sông Cả, vừa đúng lúc thầy địa lý ngã gục bên
miệng hố.
Nhà phong thủy vừa tỉnh dậy thấy quan phủ Vi Văn L. liền thuật
sơ qua các việc đã xảy ra rồi chỉ tay xuống hố sâu, lúc ấy vẫn còn cuồn cuộn bốc
khói lên ngùn ngụt sặc sụa mùi diêm tiêu muốn nghẹt thở rồi nói rằng :
–
Đây, quan lớn trông ! Tôi đã dùng phương pháp đặc biệt chế tạo những thứ thuốc
tiêu thổ rất hiệu nghiệm, mà chính sư phụ tôi đã bí truyền riêng cho một mình
tôi, trong đám đông cả mấy chục đệ tử.
Theo đúng phép chế biến đó, thì
nhà phong thủy, có thể, tùy theo địa hình, địa thế, những nơi đất mình muốn dùng
để an táng hài cốt hoặc tạo thêm gò đống hay tiêu trừ bớt những mô hình nào, xét
ra đã gây trở ngại cho sự kết phát của mộ phần.
Tôi yên trí rằng sẽ được
thành công một cách dễ dàng sau đêm bắt đầu làm lể trấn yểm với các thứ bùa chú
cực kỳ linh ứng.
Nào ngờ chỉ được có một ngày yên ổn, thì mới rồi, vào
hồi canh khuya đêm qua, tôi bỗng lại nằm mộng thấy thổ thần vùng Ngòi Xảo hiện
về báo cho biết họ Vi vì kém phước trạch, nên Thượng Đế nhất định không cho phép
được diệt trừ con Hỏa.
Đồng thời, thổ thần còn hiển linh phá hủy tất cả
bùa phép và chai thuốc tiêu thổ.
Vừa nói, lão vừa chỉ tay về phía những
mảnh vụn chai lọ, bùa chú nằm ngổn ngang gần đây.
Sáng nay, vừa trở dậy,
tôi lật đật ra ngay đây xem xét, thấy sự kỳ dị này liền niệm chú ngủ lời, bắt ấn
yểm trừ lại.
Không ngờ tà khí xung kích quá mạnh, khiến cho tôi xây xẩm
mặt mày, ngã lăn xuống đất. Nếu không được quan lớn đến kịp, cứu chửa cho, thì
không biết, sẽ còn bị nằm mê man đến bao giờ nữa ?
Dứt lời, lão thở dài
thườn thượt.
Quan Tri Phủ Vi Văn L. tức giận, nói to như gắt gỏng
:
– Sao lại có sự lạ lùng ấy !
Đã vậy, xin Tiên sinh lại thử chế
thuốc và làm bùa khác đi, rồi đích thân tôi, sẽ tự tay đem chôn xuống đây biết
đâu, tôi là mệnh quan của Triều đình, lại không được thổ thần kiêng nể sao ! Tà
thắng sao được chính mà Tiên Sinh e ngại ?
Thầy địa lý tuy không cho lời
nói đó là phải, nhưng vì kính nể quan Phủ, không dám làm phật ý con người hiếu
thắng ấy, nên đành phải miển cưỡng gật đầu.
Cả bọn kéo nhau về nhà viên
chánh Tổng nghĩ ngơi.
Trong lúc chủ nhà hốt hoảng, chạy ngược, chạy suôi
lo giết gà, giết heo để thết đãi thầy trò quan Tri Phủ Nước Hai, thì thầy đồ
Nghệ đáp bè lên chợ Bắc Quang mua sắm các thứ cần dùng để làm lể trấn yểm lần
thứ hai.
Quá ngọ ngày hôm sau, thầy đồ Ngệ mới về đến Ngòi Xảo, chỉ nghỉ
ngơi một lát cho đở mệt, là bắt tay vào việc, đóng chặt cửa buồng nhỏ về phía
trái bên Đông của ngôi nhà ngang, mà viên chánh tổng đã dành riêng cho nhà phong
thủy, theo lời yêu cầu của lão.
Thầy trò quan Phủ Vi văn L. kiên nhẩn
ngồi chờ ở bên ngoài, không ai dám nói to, đi mạnh, sợ làm kinh động, gây trở
ngại cho sự luyện bùa phép của Thầy địa lý.
Trong thời gian này nhà
phong thủy giử gìn trai giới rất cẩn thận, suốt ngày chỉ dùng trái cây và nước
mưa những khi đói khát, không uống nước, không uống rượu, không uống thuốc, lại
tắm gội sạch sẽ bằng nước lá thơm, rồi đúng giờ Tí đêm sau, mới cùng thầy trò
quan Phủ lặng lẻ ra ngoài thung lủng, người nào cũng nhón bước, cố bước nhẹ
nhàng để không gây một tiếng động nào khả dỉ làm xáo trộn bầu không khí âm u,
lạnh lẻo, hiu quạnh, hoang vu miền sơn cước.
Nền trời xám ngắt, sương
khuya, gió đêm thổi vi vu từng cơn như cắt xé ruột gan da thịt, khiến đoàn người
phải nghiến chặt hàm răng, co ro đi sát vào nhau, như muốn truyền sức nóng cho
nhau để hy vọng làm giảm bớt phần nào nạn rét buốt !
Xa xa, từng tiếng
gầm rống lanh lảnh của loài dã thú, hòa cùng tiếng vỗ cánh phành phạch của những
con đà điểu, càng tạo cho cảnh rừng núi thêm mang dại đến rợn người.
Ra
tới tả ngọn sông Cả, đoàn dạ hành đi tuốt đến gò đất : nơi con Hoả nằm án ngữ
ngôi tổ mộ của họ Vi.
Lòng hố sâu vẫn phun khói cuồn cuộn khét lẹt, sặc
sụa mùi diêm tiêu khiến cho Vi Văn L. hắt hơi liên hồi, phải đứng lên phía trên
chiều gió và dùng khăn tay bịt kín mồm mũi, trong lúc thầy Địa lý, đặt khăn gói
xuống đất, thận trọng mở vuông vải, tay dò lấy ra chiếc tróc long với một bọc
bùa chú, lể vật gói kín trong một vuông lụa bạch, mà ngoài thầy Địa lý ra, không
hề một ai được biết bên trong chứa đựng những gì.
Với dáng điệu cực kỳ,
nghiêm trang, trịnh trọng, nhà phong thủy dùng quẹt đốt nhang hướng về bốn
phương trời, vái lạy, lâm râm khấn vái, hú từng hơi dài trước khi cất tiếng trầm
trầm đọc chú, đoạn bắt quyết hô thần, sai âm binh giúp sức diệt trừ con
Hỏa.
Làn khói xanh trong lòng hố sâu, phút chốc tắt ngấm. Những tiếng rì
rào như nước chảy xiết ở dưới địa huyệt cũng im bặt !
Mùi thuốc pháo khó
ngửi cũng không còn bốc ra u uất như trước nữa.
Thầy địa lý cả
mừng.
Xuyên qua ánh than đỏ rực của bó nhang đang ngùn ngụt cháy, quơ
qua quơ lại theo những hình vẻ kỳ dị trên không trung, mọi người nhìn thoáng
thấy nét mặt hớn hở, đắc ý của nhà phong thủy, rồi nhanh như cắt lão ngửa mặt
lên trời thét to một tràng dài những tiến líu lo quái dị, đoạn vung bó nhang vừa
đi, vừa khoán bùa quanh một khu vực chùng ngót một sào ruộng, ở ngay phía Đông
Nam gò đất, cách cái hố trước chỉ độ năm trượng !
Khoán xong, lão lại
đốt giấy tiền và bùa chú, tung ra từng nắm gạo, đã được manh sẳn theo trong khăn
gói mà thầy trò quan Phủ không một ai được biết trước.
Ba lần làm phép,
ba lần hô âm binh, tung gạo, đậu muối và vẫy một thứ nước thoang thoảng mùi trầm
quế, đựng trong một cái lọ con rất xinh xắn, nhà phong thủy mới cầm bó nhang
đang cháy dở vào đúng giữa khu đất lão vừa khoán bùa, sai một tên lính hầu của
Quan Phủ dùng thuổng đào sâu chừng bảy thước, tròn như một cái giếng nhỏ. Thầy
địa lý đốt bùa, giấy vàng, giấy tiền, rồi trải một lượt giấy tráng kim xuống đáy
hố sâu, bắt quyết đúng bảy lượt, mới đặt gói bùa phép và các thứ lể vật, gói kín
trong vuông lụa bạch, phủ lên trên bằng ba lớp gạo, đậu, muối, rồi lại đốt giấy
tiền, bùa chú, bắt quyết an thần và rẩy nước phép, rồi mới sai lắp đất kín, san
bằng như cũ.
Xong suôi đâu đó, thì gà rừng vừa gáy rộ trong bản xa xa,
báo hiệu trời sắp sáng.
Nhà phong thủy, xoa hai tay vào nhau thở phào
như đã trút hết được một gánh nặng trên vai vui vẻ nói với quan phủ Nước Hai
:
– Thôi thế là tạm yên ! Nếu không có gì trỡ ngại,, thì với kỷ thuật
tôi vừa sử dụng, nội trong vòng bách nhật, con Hỏa này thế nào cũng phải tan
biến hết !
Bây giờ thì xin mời quan lớn hãy về nghỉ, kẻo trọn đêm đứng
ngoài sương lạnh, tôi e quan lớn sẽ không chịu nổi những chướng khí lam sơn của
miền núi rừng lạnh lẽo.
Từ trên cành cây trước mặt, tiếng chim rừng chợt
nổi lên thảnh thót : ” Bắc Quang, Bắc Mục, Hà Giang nước độc ! “
Sương
khuya mỗi lúc một dày thêm, lạnh thêm, làm cho quan Phủ Vi Văn L. không đợi cho
nhà phong thủy phải thúc dục đến lần thứ hai, vội bảo nhau thu xếp đồ đạc thuổn,
cuốc, lẳng lặng theo con cũ trở về nhà viên Chánh Tổng.
Thấy mọi người
có vẻ mỏi mệt vì phải thức trọn đêm vì sương gió lạnh lùng, chủ nhà vội lấy nước
nóng mời quý khách rửa mặt, pha trà quan Phủ điểm tâm, rồi thu xếp giường chiếu
để cho mọi người ngả lưng chốc lát cho lại sức.
Nhưng chỉ mới đến giờ
Thìn, đang lúc thầy địa lý say sưa trong giấc ngũ nặng nề, thì chợt thấy có
người lay gọi…
Lão vội mở choàng mắt ra, gấp gáp nhìn quanh, thì thấy
một chú linh đồng, bộ hạ thân tín của viên Chánh Tổng hấp tấp nói rằng
:
– Thưa… Thưa Cụ , lạ lắm ! Có chuyện lạ lạ lắm nên nhà cháu mới dám
làm kinh động cụ, xin cụ thứ tội cho. Số là nhà Cháu vừa ra ngoài rẩy, tình cờ
đi qua đồi Tương chợt thấy ” ngôi mả quan ” (thổ dân vẫn quen gọi ngôi mộ của họ
Vi là ” ngôi mả quan “- có mùi tanh hôi ghê ghớm, và quái dị hơn nữa, lại có một
chút nước gì đỏ ngầu như máu tươi chảy dài từ ngôi mả tới cái gò đất ở đằng sau
miếu sơn thần !…
Thầy địa lý bất giác kêu thoát lên một tiếng thất
thanh, mặt tái nhợt, lạnh toát người, cơ hồ muốn ngất lịm đi trước cái tin bất
ngờ, quá đột ngột ấy !
Lão thở dài lẩm bẩm :
– Thôi thế là hết !
Uổng phí công lao vất vả, khổ tử, lao tâm suốt mấy ngày trời quên ăn, bỏ ngủ
!
Vừa nói, lão vừa uể oải nặng nhọc đứng lên, đi lần về phía sập gụ, nơi
quan Tri Phủ Nước Hai đang thiêm thiếp giấc nồng.
Quan Phủ như được linh
tính báo động, vùng ngồi dậy, hốt hoảng hỏi vội:
– Cái gì ? cái gì mà
tiên sinh thất sắc thế hử ?
Nhà phong thủy không muốn gieo mối thất vọng
nảo nề cho vị quan phụ mẩu nên chợt úp mở trả lời :
– Cũng chưa biết
đích xác ra sao ? Lời chú linh đồng mơ hồ lắm, không thể nào tin được ? Vậy xin
mời quan lớn sửa soạn ra bờ sông xem thử…
Vi Văn L. không nói gì lẳng
lặng sửa soạn y phục, rồi lên ngựa, đi cùng nhà phong thủy, không cần đem theo
lính hầu như thường lệ.
Còn cách xa ngôi mộ tới nửa dậm đường, hai người
đã thoáng ngửi thấy một mùi hôi thúi dị kỳ, không giống một thứ un khí nào trong
thiên hạ hết !
Phân người hay phân muôn thú ? Xác người hay xác thú vật
bị chết chương chết sình ?
Đều không phải ! Mùi khó ngửi bốc ra nồng nặc
mỗi lúc một nặng nề kỳ quái hơn, theo đà tiến của vó ngựa hai
người…
Không ai bảo ai, họ cùng rút khăn tay đưa lên bịt mũi, rồi giật
cương phi nhanh…
Đến nơi, họ buông cương, nhảy vội xuống đất không
buồn nghĩ đến chuyện cột ngựa vào gốc cây, mà hấp tấp bước mau qua một gò đất
nhỏ, đến bên ngôi mả cao, to như một trái đồi con…
– Vừa đúng lúc bấy
giờ chợt có tiếng răng răc trên lùm cổ thụ phía Tây Bắc, rồi một cành cây lớn
đột nhiên gảy rớt xuống đất, mặc dầu trời không có mưa to gió lớn chi
hết.
Nhà phong thủy giật mình, đi quanh ngôi mả, bất ngờ lại thấy có vết
đất bị cầy lên, giống như một luống cày nhỏ, mà kỳ dị hơn nửa, ở hai bên mả thứ
cỏ tươi ngày thường vẫn mọc xanh rờn, lại héo hắt hẳn đi, in hệt quang cảnh điêu
tàn sau một cơn hỏa hoạn vậy.
Đồng thời, trên mặt đất cằn cổi đó, còn
nhớp nhúa một chất nước nhày nhụa đỏ ngầu như máu tươi, chạy thẳng một vệt dài,
ăn thông từ gò đất hình con Hỏa đến mộ phần.
Mùi hôi thúi chính do từ
chất máu ấy phát ra.
Nhìn kỷ vết máu, thầy địa lý sửng sốt, ngơ ngác một
lúc lâu, rồi mới lầm bầm qua nét mặt tái nhợt, hải hùng :
– Kỳ dị ! Đúng
đây là dấu vết quái vật từ con Hỏa bò tới ngôi mả, tác hại, nên long mạch mới bị
đứt, rớm máu ! Hừ, nguy hiểm thiệt !… Quan Phủ họ Vi vội hỏi :
– Có
chuyện gì mà Tiên sinh kinh nghi, lo sọ thế ?
Nhà phong thủy nhìn quan
Phủ, ngập ngừng mãi, rồi mới chậm rải trả lời :
– Thấy các hiện tượng
vừa xảy ra, tôi chợt nhớ tới lời ghi chú trong một cuốn cổ văn, khảo cứu về các
kiểu đất. Tổ sư môn địa lý đã từng dạy rằng, khi nào có “quái vật xuất hiện bất
thường, đoạn long, phạt mộc thị tai ương” , thì sớm muộn thế nào cũng sẽ có tin
dữ đưa tới !
– Không thế nào tránh khỏi.
Quan Phủ có vẻ hoài
nghi, hỏi lại :
– Nhưng đoạn long, phạt mộc thì tôi được thấy, còn quái
vật thì đâu ?
Thầy đồ nghệ chỉ vào một vệt máu dài, giải thích
:
– Cứ như mùi uế khí với dấu vết còn ghi lại, thì nhất định từ hôm qua
tới nay, phải có một loại quái vật, mà tôi ngỡ là giống “Kim Tâm cổ” một thứ độc
trùng kỳ dị, xuất hiện bất ngờ, do con Hoả tạo ra, để tác hại cho gia đình quan
lớn…Nếu lời cổ nhân dạy không sai lầm thì rồi đây, thế nào cũng phải có chuyện
không hay …
Quan Phủ Nước Hai không nói gì, buồn bả đi theo nhà phong
thủy qua gò Con Hỏa.
Gần đến nơi, mọi người cùng đứng khựng lại, vì
trước mặt họ, những bùa chú, chai lọ, chỉ ngũ sắc, giấy vàng bạc mới được trấn
yểm đêm trước, nay bị vứt tung toé, bừa bải khắp nơi, như có một bàn tay huyền
bí quái ác nào vừa đào lên, đem liệng bỏ ở bên gò đất.
Không hẹn, mà cả
Vi Văn L. cùng thầy địa lý đều thở dài ngao ngán.
Họ đang muốn sai người
dọn dẹp các thứ cho gọn ghẻ, thì chợt thấy viên cai lệ Nước Hai, từ đằng xa phi
ngựa tới, hốt hoảng đưa trình quan Phủ L. một tấm giấy xanh.
Đó là bức
điện tín của Vi Văn Định gửi cho Vi Văn L. báo tin về vụ người em út, đang làm
kỷ sư ở Hải Phòng, không biết vì buồn phiền chuyện gì trong gia đình, đã dùng
súng lục tự sát. Vì vậy, Định yêu cầu L. phải xuống ngay Hải Phòng để cùng Định
lo liệu việc tống táng đứa em xấu số.
Vi Văn L. cầm bức điện tín, tay
run bần bật, hai mắt đỏ hoe đẩm lệ, thẩn thờ nhìn quanh một vòng, rồi nắm tay
thầy đồ Nghệ, nói qua giọng nghẹn ngào :
– Thôi muôn việc đều không
tránh khỏi số trời. Xin tiên sinh thu xếp về Nước Hai nghỉ ngơi, để tôi đi Hải
Phòng lo liệu việc nhà.
Việc trấn yểm con Hỏa không cần
nữa.
GIA PHẢ DÒNG HỌ VI – dienbatn sưu tầm
.
DI ẢNH CỦA
VI VĂN ĐỊNH . dienbatn sưu tầm .
NÓI VỀ THẾ PHẢ HỌ VI .
( Bản Gia phả này do cụ VI
VĂN ĐỊNH chấp bút ).
Dịch từ Hán văn .
Nhà có Phả ký để ghi nhớ
nguồn gốc của Gia tộc , công đức của Tổ tiên, khiến con cháu đời đời giữ mãi về
sau . Theo lời truyền lại , họ Vi ta là dòng dõi của Hoài Âm Hầu Hàn Tín đời nhà
Hán . Khi Hoài Âm Hầu đã bị Lã Hậu diệt cả họ , thì người vợ lẽ đương có thai .
Thừa tướng là Tiêu Hà ngầm đem gửi ở Quan Lệnh Long xuyên là Triệu Đà , và dặn
trông nom cho cẩn thận . Sau sinh ra con trai , Triệu Đà nhận làm con nuôi, đặt
tên là Nhân , đổi họ Vi , tức là nửa chữ HÀN .
Về sau con cháu kế tiếp,
làm Tù trưởng ở đất Lĩnh Nam , nhưng đã lâu đời không có Phả ký , nên đã thất
truyền .
Đến đời nhà Trần , ông VI KIM THĂNG , tự Đình Mật , quán xã vạn
phần , Tổng Vạn phần , Huyện Đông Thành , tỉnh Nghệ an, dời đến ở Tây núi Huyền
Đinh ( Thuộc lục ngạn, Tỉnh Nghệ an ) . Ông làm quan ở triều Trần , gặp khi HỒ
QUÝ LY cướp ngôi Vua , ông bỏ Quan về nhà . Đến khi người Minh sang chiếm cứ
nước ta , Ông cùng con là ông Phúc Hân đem quân theo LÊ THÁI TỔ khởi nghĩa ở Lam
sơn , đánh đuổi quân Minh , diệt được Liễu Thăng ( Ở xứ Chi Lăng , Châu Ôn –
Tỉnh Lạng sơn ) . Sau khi nước nhà đã được bình định , Ông được phong làm Thảo
Lộ Tướng quân Tả Đô đốc , Mật Quận công , con được phong là Đô đốc đồng tri ,
Hoàn Quận công . Ông cùng với Huyện Quận công là NGUYỄN ĐỨC MINH , và các người
bộ thuộc họ Hoàng Đức , Nguyễn Công , Nguyễn Khắc , Hà Văn , Nông Ngọc ….chia
ra ở các xứ Cao bằng , Lạng sơn , Quảng Yên , đời đời làm Thổ Ty , tập phong
tước Hầu . Hoàn Quận Công sinh được 5 con giai : Con trưởng là THẾ NHÂN
, con thứ hai là THẾ HUỆ , đều ở châu Lộc Bình . Thứ ba là THẾ KỲ , ở châu Yên
bảo ; Thứ tư là THẾ TÀNG ở châu Ôn ; Thứ năm là THẾ TRẠCH , ở Bình Tây ( Nay
thuộc Cao Lộc ) .Năm người đều được phong làm Kinh Lược xứ , tước hầu
.
Sau cháu MẠC ĐĂNG DUNG là MẠC PHÚC HẢI chiếm cứ đất Cao bằng , chống
nhà Lê , con trưởng ông Thế Nhân là Cân -Đường hầu , Huý Phúc Đường , cùng với
con là Nhữ Dực hầu , Cháu là Trúc Khê hầu không chịu theo , cứ tìm con cháu nhà
họ Lê để lo việc khôi phục .
Khi đã diệt được nhà Mạc , Cân Đường hầu
được phong là Bắc phương Kinh lược Đô chỉ huy sứ , và được lập ấp tại thôn Lộc
mã , Xã Khuất xá , Châu Lộc bình , Tỉnh lạng sơn . Vì thế nên họ VI ta mới đến ở
đây .
Xét họ VI ta từ đời ông VI NHÂN đến nay đã hơn hai nghìn năm ,
những sự tích trong thời gian đó , chỉ nghe truyền lại trong câu tục ngữ Vạn
phần hoặc trong lời giã đàm Chiêu nghi , không lấy gì làm xác thực . Nay chỉ
bằng cứ vào Gia phả cũ mà ghi chép thế thứ từ cụ Tổ 13 đời là Cân Đường Hầu trở
xuống mà thôi .
MỘ TỔ Ở NÚI ĐỈNH ĐẦU .
Long mạch của núi Đinh
Đầu , ở Đô lương ( Thuộc phủ Anh sơn – Tỉnh Nghệ an ) đi xuống , nguyên bắt đầu
từ chân Lang chánh ( Thuộc tỉnh Thanh hóa ) . Đi đến Thiên uy , mạch bằng phẳng
và thấp , đến dãy núi bên Kênh Thiên uy ( Tức là Kênh Sắt , do Cao Biền đời
Đường khơi ra , nối liền sông Bùng ở Phủ Diễn châu với sông Cấm ở Huyện Nghi lộc
) . Qua kênh Thiên uy , mạch lại phẳng và thấp , rồi nổi lên ở núi Đinh . Long
mạch nổi cao lên , hình như bày ngựa đua chạy . Trong đó có một hòn núi tròn như
bát úp , đây là Huyệt …
Long , Hổ phía trong , vòng vòng bọc lại ,
phía ngoài dần dần đi thẳng mà chia ra . Cửa bể ….là Ngoại Long – Thủy , Cửa
Hiền là Ngoại Hổ Thủy , cũng đều chạy thẳng mà không hợp lại với nhau . Trước
mặt là bể cả , nên ngoại Đường rất thoáng đãng . Ngoài Hổ Thủy còn có Điện Hồng
đức và núi Thiên Nguyệt ( Tục gọi là núi Mật ) . Ngoài Long Thủy còn có núi Đại
độc và núi Tiểu độc ( Tục gọi là núi Mê ) , hai bên chầu lại trông rất đẹp
.
Đẹp nhất là trước mặt có bể rộng mông mênh , sóng cồn dào dạt Còn phía
sau , Long mạch qua kênh , đến nơi bằng phẳng và thấp xuống , lại có cầu Bùng và
đường cái quan chắn ngang , nên chưa được toàn mỹ .
LỘC PHONG LÃO NHÂN TỰ TRẠNG
.Ta sinh ra giờ Tý ( Mậu Tý ), mồng 7 ( Nhâm Thìn ) , tháng 8
( Ất Dậu ) , năm Canh Dần , niên hiệu Minh Mệnh thứ 2 ( 23/9/1830 ) ở ngôi nhà
cũ .
Hồi bấy giờ , Hiền khảo ta đương làm Tri châu Lộc bình , nhân loạn
Tiến Hiền , cụ đem lính dõng về đóng ở làng . Vào khoảng canh ba , nằm chiêm bao
con Hổ một mắt sáng như điện , toàn thân trắng như tuyết, nhẩy vào , bầy lợn
chạy tóan loạn . Bỗng nghe Hiền Tỷ kêu một tiếng to , giật nẩy mình dậy hỏi ,
thì bà cũng nói mơ thấy con Hổ trắng như thế. Rồi bà sinh ra ta .
Ta từ
thủa nhỏ vẫn thường không ngủ được , mà năm sinh ra ta là năm Canh dần , chính
là hợp với điềm bạch Hổ . Hiền Khảo cũng cho là lạ .
Đến khi ta lớn , Cụ
kể lại chuyện mộng bạch Hổ , và bảo ta rằng : ” Cụ Thủy Tổ nhà ta là Hoàn Quận
Công , từng nổi tiếng là Hổ Thần . Từ đấy , con cháu kế tiếp làm Hùng trưởng ở
chốn Biên cương , kể đã lâu đời . Giấc mộng đó là một điềm tốt , ta chắc con sẽ
làm cho nhà ta được vinh quang thêm . Duy có bọn giặc cướp , con phải vì Triều
đình mà trừ cho hết . Cứ cố gắng lên ” . Ta thưa rằng : ” Vâng , con không dám
quên ” .
Năm Tự Đức thứ 6 ( 1853 ) , ta lên 24 tuổi , đem các Thổ Ty đi
đánh giặc ở phố Đồng nhân ( Thắng trận , được thưởng Phi Long ngân tiền hạng lớn
2 đồng ) .
Đến năm sau , đem quân đi phòng ngự ở xã Thạch Bi ( Giặc
không vào cướp được , nên được thưởng Phi Long ngân tiền , hạng nhớn 1 đồng ,
hạng nhỏ 1 đồng ) . Được tin báo thắng trận Ông cụ gật đầu khen mãi
.
Sang năm sau ( 1855 ) , Cụ Ông mất , ta chỉ lo khộngnổi được nghiệp
nhà . Tháng 10 năm ấy , được bổ thụ chức Thiên Hộ .
Năm thứ 12 ( 1859 )
đánh giặc ở xã Yên lập , Tỉnh Quảng yên ( Thắng trận được thưởng Phi Long ngân
tiền hạng nhớn 3 đồng ) .
Năm thứ 13 ( 1860 ) đón đánh giặc ở đường biên
giới ( được thưởng Phi Long ngân tiền hạng nhớn 1 đồng và 6 Quan tiền kẽm ) , ở
xã Khuất xá , châu Lộc bình ( được thưởng Phi Long ngận tiền hạng nhớn 1 đồng và
10 Quan tiền ) . Ở xã Vĩnh khương , Huyện Yên bác ( Lúc bấy giờ tướng giặc là
Hứa Phạm Tam đến quấy rối , ta đem 600 lính Dõng đón đánh , được thưởng Ngân bài
và 10 Quan tiền ) . Từ đấy ta ra sức giúp Triều đình .
Năm thứ
15( 1862 ) , giặc cướp nổi lên như ong, bọn Hoàng văn Chính quấy rối Tổng Yên
Châu ,đảng Cai Vàng ( tên Lý Tuyển ) đến đồn Quang lang , Trương Thập Lục đánh
phá tỉnh Cao Bằng . Đặng Chi Hùng tập hợp đổ đảng ở Đường Lang và Quỳnh sơn . Ta
trước sau ra đánh 8, 9 trận , trận nào cũng thắng , được kỷ lục một lần , ngân
tiền hạng lớn , hạng nhỡ và hạng nhỏ , mỗi hạng 7 đồng . ( Năm ấy , đánh giặc cỏ
ở Lang châu , thắng trận được thưởng Nhạn Tiên có chữ ” Sử dân Phú Thọ ” , hạng
nhớn , nhỡ và nhỏ , mỗi hạng 1 đồng . Đem 600 lính Dõng đến Yên Châu đánh bọn
Hoàng Văn Chính , thắng trận , được thưởng thượng hạng ngân tiền lớn 1 đồng ,
hạng nhỡ 2 đồng , hạng nhỏ 2 đồng . Đánh giặc ở phố Quang lạng , thắng trận được
thưởng thượng hạng ngân tiền lớn , nhỡ , nhỏ mội hạng 1 đồng . Bọn giặc cai Vàng
tên là Lý Tuyển cướp được một con voi , giả xưng là quan Tuần phủ Lạng sơn , kéo
lên đồn Quang lạng . Ta đem 800 lính Dõng đón đánh ở xã Chi Lăng , được thưởng
thượng hạng ngân tiền hạng nhớn 1 đồng . Tướng giặc là Trương Thập Lục đánh phá
tỉnh Cao bằng , ta đem 500 lính Dõng theo , quan quân thu phục được Tỉnh Thành ,
được thưởng thượng hạng ngân tiền 2 đồng nhớn , 1 đồng nhỡ và 1 đồng nhỏ . Sang
Thái nguyên đánh Đặng Chí Hùng , thắng trận , được thưởng thượng hạng ngân tiền
nhớn , nhỡ , nhỏ mỗi thứ 1 đồng .Năm thứ 16 ( 1836 ) , bổ thụ Thổ binh suất đôi ( do đánh
giặc Tàu là bọ Chi Hỷ ở xã Hoàng động , được kỷ lục 2 lần nên xét bổ chức này )
.
Năm thứ 18 ( 1865 ) , cải bổ làm Tri Huyện Yên bác ( sau đó , có công
theo quân bắt giặc , được thưởng một đồng tiền ” Như Ý ” thay cho bữa yến )
.
Năm thứ 23 ( 1870 ) , quyền Tri phủ Tràng Khánh ( Sau đước phong 2
trật .
Năm thứ 24 ( 1871 ) , đến đóng đồn ở Kỳ lừa ( Lúc bấy giờ tỉnh
Thành lạng sơn có việc , thừa lệnh quan trên ta mộ được 900 lính Dõng đến đóng ở
Kỳ lừa ) và kiêm chức Châu Thoát lãng .
Năm thứ 27 ( 1874 ) , thăng Viên
ngoại lang , nhưng vẫn lĩnh chức Tri huyện Yên bác , rồi Tri Huyện Văn quan được
9 tháng , lại trở về chức cũ .
Năm thứ 28 ( 1875 ) lĩnh chức Tri phủ
Tràng khánh .
Năm thứ 29 ( 1876 ) quyên tiền và thóc để giúp quân nhu (
200 hộc thóc , 500 quan tiền ) , được một đạo lục chỉ .
Năm thứ 31 (
18878 ) sang Thái nguyên hợp với toán quân khác để đánh giặc ( Quan Thống đốc họ
Hoàng cấp cho bằng Bang phó tá quân vụ ) .
Năm thứ 32 ( 1879 ) thắng một
trận ( rồi vẫn làm hàm Viên ngoại mà sung chức Bang tá Tỉnh vụ ) .
Năm
thứ 34 ( 1881 ) , lại sang Thái nguyên hợp với toán quân khác để đánh giặc , lấy
được đồn Chu bố ( được thưởng bạc hà , đinh hương , dầu quế mỗi thứ một chai )
.
Năm thứ 36 ( 1883 ) , thăng thị giảng Học sĩ , vẫn lĩnh chức Bang tá
tỉnh vụ .
Năm Hàm Nghi ( 1885 ) . Lã Xuân Uy đem theo ấn Tuần phủ ra
nước ngoài . Các nơi lân cận , bọn giặc cướp thừa cơ tụ tập , đến nghìn người .
Ta đem lính Dõng ở Thượng du và các trại tất cả được 500 tên , đến đàn áp ở Kỳ
lừa , rồi phái phó binh là Phạm Văn Khỏa đóng ở Tỉnh thành , còn ta thì đóng ở
Bản Lộc , để cho mạnh thanh thế . Tháng 8 , tướng giặc là Hà Khánh Sinh đánh phá
đồn Hữu thu . Được tin báo ta phái viên Bang tá cũ là Hà Vạn Ninh và viên Châu
uý là Hứa Viết Tăng ( Hiện làm Ám sát Lạng sơn ) . chia đường tiến đánh , giặc
bỏ chạy .Năm đầu , niên hiệu Đồng Khánh ( 1886 ) , quyền chức Bố
chánh . Được vài tháng , giặc tàu Lý Hữu Sinh đem hơn 2000 đồ Đảng lẻn qua hạt
Cao bằng đến phá đồn Na cảm và quán Phú tàng , đánh phố Đồng bục rồi vây thôn
Hữu Khánh . Ta thấy thôn này có nhiều thóc gạo, sợ giữ không nổi , thì địch cướp
lương thực , nên lập tức đem 400 tên đoàn Dõng đến cứu viện . Bọn giặc ẩn nấp ở
mậu sơn , ta quay về thôn Bản Chu , bọn giặc đem toàn lực tới đánh , nhưng không
vào được . Rồi ta đánh tan được bọn giặc này ở Khôn Động , giết được rất nhiều .
Năm này được làm Hộ lý Tuần phủ .
Năm sau ( 1887 ) , thăng làm Hồng Lô
tự Khanh , ( Vẫn quyền hộ lý ) .
Năm sau nữa ( 1888 ) , thăng Thị lang ,
lĩnh Tuần phủ ( rồi được thưởng Ngân Bội tinh ) . Được hai đạo cáo trạng ( Hiền
khảo làm Thị giảng học sĩ , Tỷ chánh Ngũ phẩm nghi nhân ) . Tên Hoàng Đình Kinh
ở Tổng Ngột sơn , chiếm cứ nơi hiểm trở , thường đem đồ đảng đón bên đường cái
quan ở bắc lệ , cướp xe chở quân nhu . Ta lập nhiều mưu kế , để cho chúng ngờ
vực lẫn nhau , sau đó ta đem quân đến đánh úp , tên Kinh trốn thoát . Tháng 6 ,
pháiPhó lính binh là Phạm Văn Khoa đem quân vậy bắt được y ở thôn Bản Thí ( Được
thưởng Kim bội tinh ) . Tháng 10 xin nghỉ việc để về làm Từ đường . Rồi ở nhà
luôn .
Năm Thành Thái thứ 2 ( 1890 ) , bọn Lưu Kỳ Thắng quấy rối thôn
Hữu Khánh , ta phái Bá Hộ là Vi Thế Hiền và Trần Văn Tường đón đánh , giết được
1 tên , bắt sống được 8 tên , lấy lại được 1 khẩu súng , 1 con ngựa và 14 phụ nữ
. Được thưởng 100 quan tiền kẽm . Quan trên phái đi đánh giặc ở xã Sằn Viên ,
bắt sống được 1 tên , giết được 1 tên , rồi lại bắt sống được tên giặc lâu nămẩơ
biên giới là Mã Sinh Ninh .
Năm thứ 4 ( 1892 ) , đồ đảng của Lưu Kỳ
Thắng là Lưu Nhị và Hoàng Khai tam ẩn nấp ở Mẫu Sơn , chực đi quấy rối . Ta phái
Châu úy Hiền và Thiên hộ Tường đón đánh , giết được 9 tên địch , bắn bị thương
hơn 20 tên . Rồi đón đánh ở thôn Bản Lộc giết được 12 tên , bắn bị thương 30 tên
, nộp giải ở Tỉnh . Quan toàn Quyền gửu điện tín , mời ta về hà nội , tướng giặc
là Lý Tam thừa cơ nổi lên . Con trai thứ hai của ta là Văn Trân đốc xuất toàn
dõng để đánh giặc , giết được 2 tên , bắ`t sống được 8 tên , lấy lại được 13 phụ
nữ . Quan Năm tư thưởng cho Văn Trân Tòng cửu phẩm bá hộ , hiện có một đạo sắc
.
Tháng 3 năm thứ 5 ( 1893 ) , thực thụ hàm Tuần phủ , nhưng vẫn hưu
dưỡng ở nhà . ( Được thưởng Ngũ hạng Long bội tinh ) . Lại được 2 đạo các văn
gia tặng ( Hiền khảo làm Thái bộc tự Khanh , Tỷ là tòng tam phẩm thục nhân )
.
Lão tử có nói : ” Tri túc bất nhục , tri chỉ bất dại ” ( Biết đủ rồi
thì không nhục , biết thôi đi thì không nguy ) . Ta dù không giỏi , cũng biết
lời dạy đó . Thế thì ta còn mưu cầu gì nữa .
Tháng 11 , Quan Toàn quyền
và Quan Kinh lược về tận nơi nói với ta rằng : ” Giặc cướp ở Biên giới chưa yên
, hãy cố gắng ra làm việc để thỏa lòng dân trông cậy ” . Vì thế ta bắt buộc phải
ra làm trái với ý muốn của mình .
Tháng giêng năm sau ( 2/1894 ) , ta
lại ra làm việc ( được cấp một bản Nghị định : Tổng đốc lĩnh Lạng Bình Tuần phủ
) . Nhờ hồng phúc của Hoàng Thượng và uy đức của các vị Đại Thần , bọn cướp lần
lượt bị bắt ( tên Kim Lộc , tên Vòi ) , làm biên cảnh được an ninh .
Lại
1 năm nữa ( 1895 ) , thăng 1 trật ( nhân dịp tứ tuần đại khánh của Hoàng Thái
hậu , được thăng 1 trật và thưởng đại yến ngân tiền , nghĩa là ngân tiền thay
cho bữa đại yến ) .
Lại một năm nữa ( 1896 ) , được cáo thụ Tổng đốc (
tháng 6 , Nha Kinh Lược cấp cho Kim thanh hạng nhì . Tháng 9 được đạo cáo văn :
Tổng đốc lĩnh Tuần phủ ) .
Lại một năm nữa ( 1897 ) , tấn phong Nam tước
( tháng 3 , quan Khâm mạng đưa Thái trực tấn phong Tràng phái nam . Tháng 5 ,
quan Toàn quyền tặng bắc đẩu bội tinh ) .
Lại 3 năm nữa ( 1899 ) , gia
tặng Miếu chức cho song thân ( Hiền khảo làm Gia nghị đại phu , Thái thường tự
khanh. Tỷ là chính tam phẩm thục nhân ) .
Lại một năm nữa ( 1900 ) ,
thăng Biện Đại Học sĩ.
Kể từ lúc trẻ theo việc nhung trường , trải qua
40 năm , cũng chỉ như là giấc mộng lúc ra đời , giấc mộng đó quả là điềm tốt .
Chắc tiên công đã định trước như thế , mà Thần bạch hổ cũng thiêng , mượn tay ta
mà làm cho được như thế .
Nay ta đã 71 tuổi , vẫn như hồi trước không
ngủ được , mới bảo cậu học trò đem bút chép lấy bài ” Tự trạng ” này
.
Viết tại Dinh Tổng đốc Lạng bình – Mùa thu năm Canh Tý – Niên hiệu
Thành Thái thứ 12 ( 1900 )