PHONG THỦY HỌC – NCD. BÀI 4

PHONG THỦY HỌC – NCD. BÀI 4
Giới thiệu : Đã có rất nhiều người viết về thuật Phong
thủy . Gần đây một người bạn của dienbatn : Trường Minh – có bút hiệu NCD là một
nhà nghiên cứu Phong thủy giỏi và một người trong Huyền môn đã tổng hợp các sách
cổ , tư liệu về Phong thủy để viết lại vấn đề này . Tuy chưa phải là đầy đủ và
có một vài điều riêng dienbatn chưa nhất trí , song đây là một tài liệu tốt cho
những người nghiên cứu Phong thủy . Xin trân trọng giới thiệu cùng các bạn .
Nguồn lấy từ Hoangthantai.com. Thân ái . dienbatn.




4/. CÁC
DỊCH VỤ ĂN UỐNG- NGHỈ NGƠI:


Nói đến
ngành “công nghiệp không khói” thì đúng là một lĩnh vực hái ra tiền mà các nước
có tiềm năng đều ráng đầu tư, khai thác. Du lịch càng mở mang, phát triển bao
nhiêu thì kéo theo dịch vụ nhà hàng-khách sạn phát triển bấy nhiêu. Thêm vào đó
chi chỉ số GDP của người dân tăng, thì nhu cầu hưởng thụ của họ cũng tăng theo.
Sau một tuần làm việc căng thẳng, ai cũng muốn có những giây phút thư giản cùng
hưởng thụ chung với gia đình, bạn hữu thân tình hay… người yêu, một bữa ăn
ngon, một buổi party nho nhỏ, hay đơn giản là dùng một ly kem, uống cafe tán gẫu
với bạn bè..vv… Hàng quán ngày càng mọc lên như nấm; khách sạn, nhà nghỉ, nhà
trọ thì đầy rẫy. Trong sự cạnh tranh này, nếu có sự thiết kế hợp lý về mặt Phong
Thuỷ tất nhiên cơ hội thành công sẽ cao hơn vậy.


Điều đáng
lưu tâm đầu tiên của lĩnh vực này chính là địa điểm. Về mặt này, kinh doanh dịch
vụ ăn uống- nghỉ ngơi đòi hỏi khó khăn hơn các loại hình khác. Vì sao? Khách đi
mua hàng có thể đi bộ hàng giờ từ dãy phố này sang dãy phố khác để mua sắm,
NHƯNG khách của loại hình này là đi xe đến tận nơi. Do đó điều kiện tiên quyết
của loại hình này là địa điểm đó phải THUẬN TIỆN GIAO THÔNG. Một con đường một
chiều xe chạy có thể buôn bán hàng hóa đắt là chuyện có thể thấy, nhưng một hàng
quán trên đường một chiều mà mua bán đắt rất ít, phải nhiều mặt khác làm tốt mới
có thể. Nơi đó phải có hoặc gần nơi giữ xe cho khách. Nơi cơ sở kinh doanh buôn
bán hàng hóa kỵ các Hung sát hôi thối, ấn tượng xấu gì thì bên này càng khó chấp
nhận. Chẳng ai muốn vừa ăn xong bước ra thấy trại hòm trước mặt cả; mà cũng
không ai ưa ở khách sạn mà sáng sớm nhìn ra thấy một nghĩa trang thê lương…
Nơi đó kết cấu Địa tầng phải chắc mới được, vì nơi đây có cả trăm mạng người ăn
uống- nghỉ ngơi- làm việc, nếu có sự cố gì thì thật không thể tưởng tượng nổi
hậu quả sẽ thế nào. Tư tưởng Phong Thuỷ rất cầu kỳ về Địa chất, cho rằng Địa
chất tác động không nhỏ đến cơ thể con người. Các vùng đất có chứa nhiều nguyên
tố vi lượng kẽm, fluor, selen chịu tác dụng quang hợp phóng xạ vào không trung,
trực tiếp ảnh hưởng tới sức khoẻ con người. Các vùng đất có sóng từ trường mạnh
rất nguy hiểm, có thể làm tổn thương con người, tác động trực tiếp lên hệ thần
kinh trung ương, khiến người ở nơi đó hay bị choáng đầu, chóng mặt, thần kinh
suy nhược, thậm chí có thể bị bệnh thần kinh. Trong “Thập Nhị Trượng Pháp” của
Dương Quân Tùng đời Đường cũng có nói:


Trấn xung
trung sát bất kham thiên


Đường khí
quy tùng tại lưỡng biên


Y mạch
sảo ly nhị tam xích


Pháp
trung khai trượng tối tam nguyên.


Tức khi
có xung sát hay khí địa long (nay gọi là từ trường) quá mạnh, phải tránh sang
hai bên trung tâm mạch khoảng 2- 3 thước mà định huyệt mới tốt. Lại thêm phía
dưới đất nơi đó 3m có dòng chảy hay nơi hội tụ của hai giòng chảy, có thể tạo ra
sóng từ mạnh hơn nơi khác. Nó khiến cho người ngụ nơi đó thường hay bị đau đầu,
chóng mặt, nội tiết không điều hòa. Các vùng đất ẩm thấp cũng không thích hợp
cho khách sạn, nhà nghỉ. Nó khiến người ở đó bị viêm khớp xương, tim do ảnh
hưởng phong thấp, bệnh da liễu. Cho nên kết cấu Địa tầng vùng đất được xem trọng
không có gì là khó hiểu cả, nó cần phải được xem xét kỹ trước khi xây dựng. Ngày
xưa các nhà Phong Thuỷ không biết đó là từ trường gì, chỉ cảm nhận kim nam châm
dao động mãi, họ cho đó là điểm bất tường nên không chọn
vậy.


Không chỉ về mặt địa chất, Phong Thuỷ còn phải chú trọng
tính hợp lý của loại hình kinh doanh. Muốn mở ra dịch vụ ăn uống- nghỉ ngơi khó
hơn các loại hình kinh doanh khác, ở chỗ nó phải được tiếp thị một cách kỹ lưỡng
trước khi quyết định xây dựng. Phải điều nghiên xem nơi ta muốn làm là tỉnh
thành thuộc loại gì? Tính chất của tỉnh thành góp phần không nhỏ vào việc định
hình kinh doanh dịch vụ này. Thí dụ như đó là thành phố du lịch, thì lý tưởng
đấy nhưng chỉ có thời vụ, không có tính thường xuyên. Nơi đó là tỉnh thành sàn
xuất và tiêu thụ hàng hóa, thì mở khách sạn ra chắc đầu Xuân một người khách,
cuối Hạ một người khách ghé qua mất. Nơi lý tưởng nhất cho loại hình này là các
tỉnh thành thương nghiệp, buôn bán sầm uất, buôn bán nhiều mặt hàng. Ngoài ra ta
còn phải điều nghiên xem tình hình của người dân nơi đó sống thế nào? Khá giả
hay nghèo nàn hay giàu có? Tiêu pha rộng rãi hay chi ly từng cắc? Một nơi mà
người dân ăn không dám ăn, mặc không dám mặc, ta đến mở nhà hàng ra chỉ để…
đuổi ruồi thôi. Chúng ta còn xét đến các tuyến giao thông của nơi đó, có sân bay
nội địa- quốc tế gì không? có tuyến đường xe lửa nào? Bến cảng, bến tàu có
không? Nói chung, từ những tuyến, những trục giao thông đó xác định sơ nét về
lượng khách từ nơi khác đến. Tất cả những phần thuộc tính chất của tỉnh thành
này phải được xem xét kỹ trước khi mở ra kinh doanh. Người thầy địa lý thì chỉ
làm công tác chuyên môn, NHƯNG người cố vấn Phong Thuỷ cho lĩnh vực kinh doanh
không chỉ giỏi chuyên môn của mình, mà bắt buộc phải thông hiểu, am tường cả
lĩnh vực tiếp thị này nữa. Vì phải tiếp xúc thị trường mới hiểu được cung, cầu
ra sao, có như vậy mới cố vấn cho khách hàng được. Nói đến lĩnh vực này, NCD xin
được nói rộng thêm một tý cho lĩnh vực nhà nghỉ, nhà trọ, khách sạn. Bởi dạng
hình kinh doanh này không chỉ phục vụ khách du lịch, mà rất phức tạp. Trước
tiên, ta phải nhìn nhận vấn đề trai- gái yêu đương thời nay khác xưa. Ngày trước
còn bảo “nam nữ thọ thọ bất tương thân”, chứ các cô cậu ngày nay dám nói “nam nữ
cọ cọ…mát da lưng” lắm đấy. Cho nên, chỉ cần hơi thân thân một tý mà nhiều cô
cậu đã đưa nhau vào nhà nghỉ, nhà trọ mà tâm tình. Các dịch vụ mại dâm sa đọa
cũng chiếm một lượng khách không nhỏ trong loại hình kinh doanh này, từ các
khách ăn chơi xoàng xoàng, cho đến các Đại gia tiêu tiền như nước, các quan chức
địa phương đều có cả. Cho nên khi tiếp thị Tiền kinh doanh cần phải để ý nếp
sống, dân sinh; hay nói trắng ra là lưu tâm đến quan điễm chung về quan hệ tình
dục ngoài hôn nhân- tiền hôn nhân của người dân vùng đó (các quan chức thì có lẽ
“không có con mèo nào chê mỡ cả”, chẳng qua do hoàn cảnh nào đó chưa cho phép
thôi, cả Clinton còn có mà!). Các hoạt động Tín Ngưỡng, Tôn Giáo lớn, các nơi
gần chùa chiền miếu mạo (như vùng gần Tòa Thánh Tây Ninh, gần núi Bà Đen, gần
Núi Bà Chúa Xứ…); các danh lam thắng cảnh nổi tiếng (như vùng gần Vịnh Hạ
Long, phố cổ Hội An, Nha Trang…)… các nơi đó cũng ảnh hưởng rất nhiều đến
lượng khách của loại hình kinh doanh này.


Còn một
yếu tố nữa không kém phần quan trọng, đó là “tri bĩ, tri kỷ, bách chiến bách
thắng”. Khi ta đến nơi đó, trước tiên phải nắm rõ ở đó đã có những đối thủ nào.
Tìm hiểu thật kỹ về từng đối thủ của mình phải gặp trong tương lai, là một điều
vô cùng có lợi cho kinh doanh sau này.Từ chất lượng ăn uống, cung cách phục vụ,
không gian bài trí, giá cả món ăn, vệ sinh… của các dịch vụ ăn uống; cho đến
chất lượng của trang thiết bị, cung cách phục vụ, địa thế, đằng cấp, qui mô…
của các dịch vụ nghỉ ngơi. Tất cả phải có sự thống kê để đánh giá năng lực, tiềm
năng, tầm cỡ của đối thủ cạnh tranh với mình. Có như vậy, khi chúng ta mở ra
kinh doanh mới có thể thắng được.


Người ta
thường nói: “ở nhà Tây, ăn cơm Tàu, cưới vợ Nhật”, câu nói này gần như ai cũng
từng nghe qua ít nhất một lần trong đời. Nay hiểu rộng câu này ra, NCD thấy nó
rất thích hợp cho lĩnh vực kinh doanh ăn uống- nghỉ ngơi. Một điểm phục vụ ăn
uống nghỉ- nghỉ ngơi không có gì quan trọng bằng ba yếu tố chính: Khung cảnh
(tức vùng không gian nơi đó, quang cảnh hữu tình, bài trí bắt mắt..)_ Chất lượng
(món ăn, thức uống đều ngon, đặc sắc; trang thiết bị phục vụ nghỉ ngơi thì đầy
đủ, tiện nghi…)_ Cung cách phục vụ (đúng với phương châm “Khách là Thượng Đế”,
“vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”, làm sao cho khách cảm nhận khi đến đó
họ được săn sóc tận tình, được đối xử trân trọng mà lại niềm nở, thân tình như
người thân trong nhà vậy). Đạt được ba yếu tố này thì không khó để nắm thành
công trong tay.


Hôm qua
NCD xem thời sự trên tivi, thấy có nói đến một công ty ở Hà Nội, kinh doanh nhà
ở nơi các chung cư cao cấp, lại có cách hành xử “tiền hậu bất nhất” như thế sao
gọi là “cao cấp” được. Khi xét đến yếu tố Phong Thuỷ trong lĩnh vực ăn uống- ngủ
nghỉ ta không thể bỏ qua được phần tính chất và quy mô của nó. Tức là, giả như
các bước ban đầu ta đã thực hiện xong, đã đi vào kinh doanh (nghĩa là giống như
công ty nói trên đã bán xong nhà cho người dân mua), xin đừng xem nhẹ hai yếu tố
Tính chất & Quy mô mà hỏng mất việc kinh doanh, uổng phí bao tâm huyết lúc
đầu. Không vị khách nào muốn bỏ một món tiền gấp 3-4 lần quán ăn nơi khác cho
một món ăn chẳng ra hồn, còn thua cả quán vỉa hè. Cũng như không ai chịu trả
tiền theo mức khách sạn 4-5 sao cho một phòng mà tiện nghi thiếu kém, phục vụ
tồi tệ được. Nếu chúng ta không làm tốt mặt này, thì một đồn mười, chục đồn
trăm, chắc chắn điểm kinh doanh của chúng ta phải đóng cửa thôi, vì sẽ không ai
đến ủng hộ một nơi như thế nữa.


Nói chung
các khâu trên chúng ta có thể khống chế được qua khâu Tiếp thị & Quản lý
kinh doanh, NCD không muốn bàn sâu thêm. Cũng như đối với các trường hợp khác,
Cửa chính là một yếu tố quan trọng trong bất kỳ cơ sở hay nhà ở nào. Và nó cũng
cùng một nguyên tắc chung như các cơ sở- doanh nghiệp trên kia, nên NCD không
lập lại ở đây. Riêng nhà nghỉ- khách sạn cần lưu ý đến ngoại cảnh hơn nữa, bởi
khách của họ là khách ngủ lại chứ không phải mua hàng hay ăn xong rồi về. Cho
nên đôi khi có những kiến trúc hay hình thể bên ngoài làm ảnh hưởng đến giấc ngủ
của khách, tức là trực tiếp ảnh hưởng đến lượng khách của nơi này. Ánh sáng đèn
ban đêm ở cửa phải hấp dẫn khách.


Do tính
Âm bên trong khách sạn- nhà nghỉ, nên bên ngoài cần bố trí Dương làm chính, từ
Tiền sảnh ra cổng cho đến bên ngoài: màu sắc thuộc Dương (không dùng gam màu
sẫm, tối), ánh sáng thuộc Dương (ban đêm không dùng đèn mờ tối, ban ngày không
để âm u). Tiền sảnh phải rộng lớn, thoáng, sáng sủa, nên có vài bộ bàn ghế (phù
hợp với qui mô & đẳng cấp của khách sạn) để khách ngồi nghỉ, chờ đợi. Các
khách sạn lớn thường có một quầy rượu hay bar giải khát nhỏ nơi Tiền sảnh, để
khách có thể ngồi uống nước với bạn nào mà họ không muốn đưa lên phòng, vừa có
thể tăng thêm doanh thu cho khách sạn. Như khách sạn 5 sao Hilton ở Thượng Hải
cũng vậy. Không những thế, họ còn bố trí một bồn phun nước nhỏ nơi Tiền Sảnh,
một tác động rất hay giúp Khí luân lưu khắp nơi, lan tỏa vào trong; lại đặt một
bình hoa tươi thật lớn ngay Tiền Sảnh, mỗi ngày mỗi thay hoa mới, vừa bước vào
cửa đã thấy ngay, tạo cho khách một ấn tượng tươi mát, dễ chịu
ngay.


Khách sạn quan trọng nhất chính là Phòng Ngủ của khách bên
trong. Chất lượng phòng tốt xấu trực tiếp ảnh hưởng đến giá cả thuê phòng &
hình tượng khách sạn. Chiều cao trần phòng không nên quá 2m80, cao quá có cảm
giác trống trải, thấp quá có cảm giác bị đè nén. Nên dùng các gam màu nhạt cho
các phòng ngủ. Trong phòng ngủ khách sạn luôn đi kèm một phòng vệ sinh, cửa
phòng vệ sinh không nên mở trực diện vào giường ngủ. Trong phòng vệ sinh phải
sạch sẽ, cao ráo, thoải mái, thoáng khí, gam màu cũng nên nhạt. Có một điều mà
trên kia NCD đã nói, là Tính chất & Qui mô, nay xin nhắc lại vì nó rất quan
trọng: Nên thường xuyên kiểm tra hệ thống đèn, ống nước, máy điều hòa không khí,
cable ti-vi, bồn cầu, máy nước nóng, tránh để khách phiền lòng. Khi thiết kế
phòng nên cố gắng sao cho mỗi phòng đều đón được ánh mặt trời, và nhìn ra quang
cảnh đẹp bên ngoài (như khách sạn Sheraton ở Hàng Châu- Trung Quốc nhìn ra cảnh
thơ mộng tuyệt vời của Tây Hồ, như khách sạn Palace ở Đà Lạt nhìn ra Hồ Xuân
Hương hữu tình…)


Các khách
sạn- nhà nghỉ nên chừa khoảng không gian để xe có thể đậu lại, ít nhất cũng là
để xuống khách. NCD không hiểu các quan chức Việt Nam ta đi ra nước ngoài tham
quan cũng nhiều, chẳng biết họ có chịu tìm hiểu, học hỏi như mục đích của chuyến
đi hay không, tại sao không tiếp thu được những cái hay của người về áp dụng?
Trong đó có cả vấn đề qui hoạch đô thị, hiện đang còn nhiều điểm rất bất hợp lý.
Ở một thành phố khuyến khích du lịch, muốn du khách đến mà đâu đâu cũng cấm đậu
xe, thử hỏi sao khách có thể dừng ở khách sạn hay đi mua sắm thoải mái được? Có
khi tài xế chạy vòng vòng cả chục con đường vẫn không có được một chỗ cho phép
xe 12 chỗ đậu lại. Thật nghịch lý không thể tưởng! Đúng là “trống đánh xuôi, kèn
thổi ngược”, một bên là khuyến khích, một bên là cản trở, đấy là một cái khó cho
các doanh nghiệp nhà hàng- khách sạn ở Việt Nam hiện nay. Trong khi chờ có sự
qui hoạch hợp lý, trước tiên chúng ta tự mình hãy hoàn thiện, khắc phục điểm đó
theo cách của mình. Nghĩa là trước khi mở ra nhà hàng- khách sạn hãy nghĩ đến
tìm không gian để xe khách đỗ lại trước đã, vì ở Việt Nam ta có mùa mưa, nếu xe
khách vào tận cửa thì sẽ tiện lợi rất nhiều vậy. Và có một điều này tuy không
nằm trong lĩnh vực Phong Thuỷ, nhưng NCD thấy thực tiễn ở xứ bạn và nghĩ nó có
thể giúp ích cho các doanh nghiệp khách sạn, nên xin giới thiệu ra đây. Lúc ở
Thượng Hải, NCD thấy các nhân viên bảo vệ ở khách sạn Hilton rất cẩn thận, với
khách du lịch họ luôn ghi lại số xe khi khách bước lên bất kỳ xe taxi nào trước
cửa khách sạn họ. Điều này khiến du khách sẽ cảm thấy rất an tâm, họ cảm giác
mình luôn được quan tâm, bảo vệ ngay cả lúc đi ra ngoài (bởi du khách có sự cố
gì hay vắng mặt quá lâu, họ sẽ báo cảnh sát về số xe taxi mà khách đã lên ngay,
điều này khiến xe taxi nào muốn lừa gạt khách cũng không dám làm ẩu). Một động
tác nhỏ nhưng tạo ấn tượng tốt đẹp không nhỏ trong lòng du khách
vậy.


Với các nhà hàng- quán ăn, quan trọng nhất là cái Bếp. Đa
phần khách đến ủng hộ một quán nào đó là vì thức ăn ngon nhiều hơn là vì khung
cảnh (Đổi lại, quán cafe đa phần là vì khung cảnh- âm nhạc là chính). Nhưng các
món ăn ở các quán đa phần đều tầm tầm như nhau, khác chăng là ở mỗi quán có một
món như là đặc trưng riêng của họ thôi. Cho nên, lấy ưu bù khuyết, cung cách
phục vụ và khung cảnh, trang trí sẽ giúp thêm cho phần khẩu vị của khách vậy.
Nhiều khi quán không làm món ăn xuất sắc lắm, nhưng các nhân viên phục vụ quá
tận tình, chu đáo khiến cho khách… không nỡ bỏ đi quán khác ăn (thôi thì ăn ở
đâu cũng same same như nhau, sao mình không đến chỗ nào tiếp đãi mình chu đáo
hơn chứ?!). Hay có những nơi bài trí cực kỳ đẹp, khiến ai có tổ chức tiệc tùng
đều nghĩ ngay đến nơi ấy, đấy cũng là một lợi thế kinh doanh lĩnh vực này vậy.
NCD không bàn sâu ở hai mặt “bù lỗ” này, mà chỉ đưa ra những điều cần thiết về
Phong Thuỷ trong nhà hàng- quán ăn thôi.


Bước vào
một nhà hàng, một quán ăn thì chính trên cái lối ra vào ấy cũng đã góp phần tạo
khung cảnh cho bữa ăn rồi vậy. Đây chính là “ấn tượng đầu tiên” của khách đối
với loại hình kinh doanh này. Nên tránh cửa ra vào dẫn ngay vào các bàn ăn, vì
nó có hai điều bất lợi:


_ Thứ
nhất, với khách đang ngồi ăn nơi đó, họ sẽ cảm thấy ngượng vì luôn đập vào mắt
những người đi ngang qua cảnh họ đang ăn, sẽ mất cả tự nhiên, thoải
mái.


_ Thứ hai, với những khách vừa đến. Những người đang ăn cũng
sẽ ngoái đầu nhìn xem ai đang vào (tâm lý là vậy), làm cho vị khách mới này thấy
ngượng vì trở thành trung tâm chú ý của mọi người, như thế thật khó
chịu.


Tạo một cảm giác thoải mái cho khách chính là ưu tiên bước
đầu khi khách vào vậy. Nếu là một nhà hàng, một quán ăn lớn nên thiết kế một bàn
tiếp tân, có nhân viên tiếp tân chào mời, đón khách vào khu vực trong, bàn giao
cho nhân viên phục vụ bên trong. Như vậy sẽ tạo cho khách cảm giác mình được xem
trọng, được ưu ái, tự dưng trong lòng họ sẽ nảy sinh thiện cảm ngay. Trong bước
đầu tiên tiếp xúc với khách này, người nhân viên tiếp tân đóng một vai trò hết
sức quan trọng. Vì đấy chính là người đầu tiên tiếp xúc với khách hàng, việc mua
bán với khách- ở bất kỳ dạng kinh doanh mua bán nào- thì người đầu tiên tiếp xúc
với khách cũng rất quan trọng, quyết định việc mua bán thành hay không cũng một
phần từ bước đầu tiên này. Người nhân viên tiếp tân không những phải tươi cười,
vui vẻ mà còn phải ăn nói nhã nhặn, lịch sự, cởi mở, thân thiện với khách. Chỉ
cần một ánh mắt ôn nhu trìu mến cũng khiến khách cảm thấy thân thiện hơn ngay
(nhưng nếu người ta đi có đôi, mà cô nhân viên tiếp tân cứ nhìn “anh khách đẹp
trai” mà chớp mắt làm duyên mãi, thì e rằng cặp khách này sẽ không ghé lại lần
sau rồi). Không thể thủ bộ mặt u ám buồn xo ra mà tiếp khách (mọi việc buồn bã
gì đều phãi gác lại bên ngoài), hay một gương mặt bơ phờ thiếu ngủ, gặp khách
là…” liếc mắt đưa ghèn” thì nguy quá. Do đó, yếu tố thành công trong kinh
doanh được xem trọng nhất với một người chủ là: Biết dùng đúng người vào đúng
việc & thiết lập một quan hệ thân thiết với các nhân viên. Có như thế nhân
viên mới làm việc hết mình & phát huy hết khả năng của họ. Xin hãy nhớ cho
vậy!


Các sách Phong Thuỷ bày bán trên thị trường nêu lên cách
dùng gương trong nhà hàng- quán ăn để “tạo hiệu ứng” tăng lượng khách- tăng
doanh thu. NCD rất tán đồng cách này. Cashier (quầy thu ngân) nên đặt ở vị trí
chéo góc với cửa ra vào, đây là vì trí có tầm nhìn bao quát toàn cảnh trong nhà
hàng. Một người quản lý có thể đứng gần đó quan sát khắp các bàn để điều động,
hỗ trợ cho nhân viên khi cần thiết. Nếu góc chéo đó là cung Tài Lộc hay cung Quý
Nhân thì quả là trên cả tuyệt vời!


Hãy lưu ý
các góc cột vuông vức trong nhà hàng, quán ăn, vì các cạnh sắc bén cũa nó sẽ tạo
ra Sát khí. Có vài cách hóa giải nó, nhưng đơn giản hơn hết là dùng dây leo thả
theo các cạnh của nó. Nếu có thể, hãy sắp xếp các bàn tránh xa lối đi chung. Vì
cung cách phục vụ nhà hàng buộc nhân viên phải bưng khay bằng một tay, họ cứ
lượn qua lượn lại với khay thức ăn sẽ làm cho khách ngồi hai bên lối đi thấy
phập phồng, “chả biết lúc nào mấy anh chàng này quẳng cái đống thức ăn trên mấy
cái mâm kia vào người mình nữa đây?!”. Thật là khó chịu đấy! Làm ăn mất cả ngon.
Ngay cả các khu vực gần Bếp cũng thế, nên tránh xa ra. Vì đó là nơi rất chộn rộn
người lui kẻ tới, lại thêm mùi dầu mỡ chiên xào trong Bếp có thể làm thực khách
ăn không còn thấy ngon nữa.


Màu sắc
cũng góp phần trong việc này, các gam màu nóng như đỏ, cam, hồng thuộc Dương,
chúng có tác dụng kích thích tính thèm ăn (điều này có phần giống trong thuyết
A6m Dương Khí Công của Thầy Bùi Quốc Châu). Chính điều này dẫn đến lời khuyên
các nhà hàng- tiệm ăn nên trang trí các gam màu nóng trên. Và trong các sách bày
bán trên thị trường hiện nay, các tiền bối trong nghề này có một sự nhầm lẫn về
cách giải thích, khi cho rằng vì tiệm ăn thuộc hành Hỏa nên phải dùng màu đỏ.
Thực ra, tuy nhà hàng- quán ăn thuộc hành Hỏa, nhưng nếu ta thêm hành Hỏa thì
nơi đây Hỏa khí quá vượng, sẽ tạo ra sự mất cân bằng trong Âm Dương, Ngũ Hành là
cái hại thứ nhất. Với các nhà hàng- quán ăn bán Hải Sản tươi sống thì càng không
nên dùng, vì màu đỏ là màu của tôm cá chết, đó là cái hại thứ hai, trường hợp
này phải dùng gam màu xanh lá cây đậm. Trong các nhà hàng- quán ăn, việc bố trí
thêm hai Hành Thủy & Mộc là rất cần thiết. Bởi nó có tính làm mát dịu cái
Dương khí quá thịnh trong nhà hàng- quán ăn, điều có thể gây ra tranh chấp, thậm
chí xô xát. Những chậu cậy xanh bố trí hợp lý, những hồ cá, những bức tranh sông
biển với trời nước bao la tạo một cảm giác thư thả, đằm tính, lại có hiệu ứng
tăng việc kinh doanh (vì nước là Thủy là chủ Tiền tài; hai nửa là Thủy sinh Mộc,
Mộc sinh Hỏa). Nhất là khi đặt đúng chỗ thuộc cung Bát Quái, nó sẽ hỗ trợ cho sự
nghiệp, cho Tài Lộc, cho danh tiếng của nhà hàng ăn. Tránh làm toilet hay phòng
ngủ của nhân viên ngay hướng Nam, thanh danh nhà hàng sẽ bị vùi xuống bùn nhơ
đấy.


Với các quán fast-food, nhu cầu nơi đây là phục vụ càng
nhiều khách càng tốt, và làm sao phục vụ được nhiều khách trong thời gian ngắn
nhất. Do vậy, các nơi này cần chú ý nhất là lối ra vào phải rộng rãi, ở nơi dễ
nhìn thấy nhất. Bàn ghế cho các quán fast-food này nhiều nơi chỉ là những bàn
ghế nhỏ thô sơ. Nhưng theo NCD, nên dùng các bàn ghế nhiều màu sắc, như ba màu
xanh- đỏ- vàng, tạo cảm giác vui mắt. Các cửa hàng fast-food thường đi kèm với
các trung tâm mua sắm, nên màu sắc thích mắt sẽ dễ lôi cuốn khách đến đó
hơn.


Với các quán bar, quán cafe thì nên lưu ý vấn đề trang trí.
Chất lượng thức uống tuy quan trọng nhưng không bằng cái “không khí” nơi đó. Nơi
này, sự trang trí một cách nghệ thuật & âm nhạc có tính cách chọn lọc là hai
yếu tố góp phần không nhỏ trong việc quyết định thành công vậy. Màu sắc nơi đây
thường dùng gam màu tối không phản xạ ánh sáng, vì ánh sáng nơi đây không thể
sáng rỡ được. Vào một quán cafe mà đèn sáng choang như quán ăn, thật khó mà có
hứng tán gẫu. Chung qui, nơi đây thích hợp với hành Thủy, sự tĩnh lặng (nhạc chỉ
mở vừa phải để khách có thể nói chuyện thoải mái, không phải hét vào tai nhau
mới nghe được), không gian ánh sáng mờ. Cũng như quán ăn, quầy thu tiền nên đặt
ở vị trí có tầm nhìn bao quát.


Bây giờ
NC mới nói đến vấn đề mà lẽ ra phải nói từ đầu, đó là: Ðặt tên cho doanh nghiệp-
cơ sở kinh doanh. Khổng Tử có nói: “Danh bất chính tắc ngôn bất thuận”. Qua đó
ta có thể thấy cái tên quan trọng thế nào. Với người thì tên họ có thể bổ cứu
cho sự thiếu sót trong năm tháng ngày giờ sinh. Chính vì vậy mà tục ngữ Trung
Quốc có câu: ” Cho con ngàn vàng chẳng bằng dạy cho con một nghề tốt, dạy con
một nghề tốt chẳng bằng đặt cho con một cái tên tốt”. Sinh cùng năm tháng ngày
giờ mà có số phận khác nhau là do nhiều yếu tố, trong đó cái tên cũng góp một
phần vậy.


Ví dụ
như: Người sinh năm Hợi, mà:


_ Trong
tên có chữ Ngư (như Giao,Tuyết của cá tuyết..), chữ Mễ (như Phấn, Lương, Đường,
Trang…), chữ Đậu (như Đăng, Phong, Diễm…): Phúc Lộc song toàn, danh lợi vĩnh
tại, phú quý câu cát.


_ Trong
tên có chữ Đao (như Lợi, Tiền là trước, Cương, Kiếm..), chữ Lực (như Thắng,
Dũng, Công, Cần, Huân của huân chương…), chữ Thạch (như Thạch, Sa là cát, Bích
của ngọc bích, Khánh…), chữ Mịch (như Văn, Thuần, Sa là lụa, Lũy của tích lũy,
Huyền, Nhung, Tuyến, Duyên…): Bệnh nhược đoản thọ hoặc kỵ xa phạ thủy, lao lệ
nhất sinh hoặc hình khắc phụ mẫu, hình ngẫu thương tử, đa tai ách hoặc ác tử
hung vong chi ách.


……


Còn nhiều
trường hợp nữa cho các bộ chữ Hán có trong tên của người sinh năm Hợi. Chỉ qua
hai trường hợp trên ta cũng thấy số mệnh họ khác nhau một trời một vực, chỉ vì
cái tên đặt khác nhau thôi. Dẫn chứng trên đây để các anh chị, các bạn thấy rõ
cái tên góp phần không nhỏ vào vận mệnh con người, hầu khi có gia đình hãy đặt
cho con mình cái tên mang nhiều vận may cho chúng.


Cũng như
vậy, với doanh nghiệp- cơ sở kinh doanh, nhưng nó phức tạp hơn một tý, vì nó còn
phân ra loại hình gì. Ví dụ: Quán ăn có thể đặt tên NGON được, nhưng một doanh
nghiệp mà đặt tên này nghe thấy kỳ quái liền; quán cafe có thể đặt tên “Điểm
hẹn” được, nhưng công ty mà đặt tên này nghe không ổn, chắc quý phu nhân không
ai muốn các ông chồng của mình đến những nơi có cái tên này, như một sự báo
trước cho việc lăng nhăng bên ngoài rồi.


Cho nên,
yếu tố đầu tiên phải là hợp lý, hợp với ngành nghề, hợp với loại hình kinh
doanh, hợp với đẳng cấp của doanh nghiệp- của cơ sở. Cho dù có lựa được cái tên
hợp với các yêu cầu của việc đặt tên, mà không hợp lý thì hãy dẹp đi, cho dù đó
là sự chọn lựa của một ông thầy Phong Thuỷ nổi tiếng nào cũng thế. Và lẽ tất
nhiên, cái tên hợp lý ấy phải mang một ý nghĩa tốt đẹp, đó chính là điều cần
thiết thứ hai_ điều này cũng thuộc trong 9 tiêu chuẩn chọn tên, nhưng do tính
quan trọng của nó nên NCD tách ra đây nói thêm. Không ai muốn cái tên doanh
nghiệp- cơ sở kinh doanh của mình vừa đọc lên là nghe như Điềm gỡ liền. Cái tên
với ý nghĩa xấu thì tự nó đã tạo ra mặt lo âu về tâm lý cho chúng ta, mặt khác,
khách hàng- đối tác cũng không muốn nhắc cái tên có ý nghĩa không may trên cửa
miệng họ, như sợ vạ lây vậy. Vô hình chung tự ta cắt đứt sự giao tiếp với khách
hàng- đối tác. Cái tên gợi lên điềm lành, may mắn ai cũng thích gọi cả, cũng như
ngày Tết ai cũng muốn người có cái tên ý nghĩa tốt đẹp đến xông nhà vậy thôi.
Hai yếu tố trên đây là tính hợp lý- tâm lý. Cái chính trong việc chọn tên cơ sở
kinh doanh-doanh nghiệp theo Phong Thuỷ là phải hợp Âm Dương, Ngũ Hành. Cách
chọn tên theo Phong Thuỷ trước đây vốn cũng như khoa Phong Thuỷ huyền bí này,
được truyền từ Trung Quốc sang, cho nên chọn theo chữ Hán là chính. Các tên cơ
sở như: Đại Thành, Đại Phú, Đại Phát, Kim Lợi, Thụân Thành, Thuận Phát.. đều lấy
theo ý nghĩa chữ Hán cả đấy thôi. Thuật lấy tên này người ta căn cứ vào 9 điểm
sau để chọn:


_ 1 là Ý
nghĩa cát lành (như đã nói ở trên).


_ 2 là
hợp Âm Dương, tính ra số nét của từng chữ, số nét lẽ là Dương, số nét chẵn là
Âm. Cái tên phải Âm Dương liên tiếp hoặc đối xứng.


_ 3 là
phải hợp Ngũ Hành, tính số nét như trên rồi quy ra Ngũ Hành (với 1-2 Mộc, 3-4
Hỏa, 5-6 Thổ, 7-8 Kim, 9-10 Thuỷ, trên nữa thì cứ trừ đi 10 cho đến khi số đó từ
10 trở xuống). Các chữ phải theo thứ tự tương sinh, không được tương
khắc.


_ 4 là tổng số nét của các chữ phải là số tốt theo Dịch Lý.
Trong điều này thì bên Dịch Lý cũng đã soạn ra sẵn các số từ 1 đến 81 nét có ý
nghĩa thế nào.


_ 5 là
cái tên quy đổi ra Ngũ Hành phải là Hỷ Dụng Thần của Bát Tự người chủ doanh
nghiệp- cơ sở, hay Giám đốc công ty. Tức là phải tính năm tháng ngày giờ sinh
của người đó, tìm Hỷ Dụng Thần trong Tứ Trụ của người đó (đây là công việc
chuyên môn với người Đoán mệnh qua Tứ Trụ), xem Hỷ Dụng Thần đó thuộc Ngũ Hành
gì, tên quy ra Ngũ Hành (trên Tổng số nét) so xem phải hợp mới
tốt.


_ 6 là cái tên quy đổi Tổng số nét ra Ngũ Hành phải bù vào
chỗ khuyết (nếu có) của Ngũ Hành trong Bát Tự ngày sinh của người chủ doanh
nghiệp- cơ sở hay Giám đốc công ty.


_ 7 là
cái tên quy đổi Tổng số nét ra Ngũ Hành phải phù hợp với ngành nghề của doanh
nghiệp- cơ sở kinh doanh.


_ 8 là
cái tên đó phát âm lên phải thuận miệng, xuôi tai chứ không trúc trắc khó phát
âm.


_ 9 là Tên phát âm lên không trùng âm với chữ mang ý nghĩa
xấu. Vì chữ Hán Đồng âm rất nhiều. Ví dụ như: Hàn Uyên và Hàm Oan đều có cách
phát âm na ná (hán yuan); Sử Thi và Tử Thi (si shi) có cách phát âm na
ná….




Khi cái
tên viết trên bảng hiệu, phải chú ý màu sắc phối hợp trên bảng. Trong các màu
phải có một màu làm Chính Sắc, đấy chính là màu khuyết trong Ngũ Hành của Bát Tự
ngày sinh của chủ doanh nghiệp- cơ sở:


_ Khuyết
Thổ, Kim: dùng màu Vàng, Trắng làm chủ.


_ Khuyết
Hỏa, Thổ: dùng màu vàng, Đỏ làm chủ.


_ Khuyết
Mộc, Hỏa: dùng màu Xanh da trời nhạt, đỏ làm chủ.


Cứ theo
đó mà suy ra vậy.




Cách treo
bảng hiệu cũng tùy hướng của doanh nghiệp.


_ Các
hướng Bắc, Tây Bắc, Nam, Đông Nam: Nên treo cao vừa phải, quá cao sẽ ngăn chận
dòng khí & đẩy khí Dương tăng lên nhiều khiến mất cân bằng Âm
Dương.


_ Hướng Đông: Là hướng mặt trời mọc, tượng cho sự phát triển
nên cần treo cao.


_ Hướng
Tây: Là phương Bạch Hổ, nên treo cao vừa phải, nếu thấp quá sẽ có sự va chạm
giửa các nhân viên.


_ Hướng
Đông Bắc: Nên để thấp.


_ Hướng
Tây Nam: Nên cách mặt đất cỡ 6m.




Về kích
thước bảng hiệu (cả card visit) NCD cũng xin nhắc lại một lần nữa với các anh
chị, các bạn, xin đừng quên: một chiều kích thước Dương, một chiều kích thước
Âm.


Với nhà hàng- quán ăn- quán cafe, có người thích đặt theo số
cho dễ nhớ. trong việc chọn số, thường xưa nay người ta chọn theo cách của người
Hoa, là lựa những số Đồng Âm với những chữ mang ý nghĩa tốt đẹp, thuận lợi. Sau
đây, NCD xin đơn cử một vài số:


_ 1: duy
nhất, chỉ một.


_ 2:
dễ.


_ 3: sanh (tam sanh hữu hạnh), là số tượng cho Tam
tài.


_ 4: Tử (chết) => suy sụp, chết chóc, tàn
tạ.


_ 5: số của Hoàng Cực; vô (không).


_ 6: Đồng
Âm với Lộ (con đường), Lộc (tài lộc), số tượng cho Trời.


_ 7: Thất
(mất).


_ 8: Đồng Âm chữ Phát (phát đạt), số tượng cho quẻ Khôn
(đất).


_ 9: số tượng cho Cửu Nghi, Cửu Đỉnh, Cửu
Cung.


_ 10: Thập toàn thập mỹ, kết hợp thủy
chung.


_ 11: Trước sau như một.


_ 22: Dễ
dàng, thuận lợi.


_ 33: hai
lần sanh. Trong Dịch có nói “Tam tam, lục lục biến hóa vô cùng” => Phát
đạt.


_ 24: dễ chết, dễ sa sút, dễ suy sụp.


_ 14: chỉ
có một chết => phải lụn bại.


_ 34:
chắc chết => phải lụn bại.


_ 16:
nhất lộ => mãi vận chuyển, mãi vận hành.


_ 26:
Đồng Âm với hai chữ “Y Lộc” => No ấm.


_ 76:
thất lộc => mất tài lộc.


_ 53: vô
sanh ==> thiếu sanh khí => khó vượng phát lên được.


_ 54: vô
tử ==> không chết => sống còn.


_ 74:
thất tử ==> mất chết => sống, hoạt động được.


_ 168:
Đồng Âm với 3 chữ “Nhất Lộ Phát” => chỉ có 1 con đường phát
đạt.


_ 909: con số này có một lai lịch mà có lẽ hầu hết người
Việt nào đi vượt biên đường biển sau 1975 đều có nghe. Con tàu mang số 909 này
bị cướp 9 lần, không ai trên tàu nghĩ rằng mình có thể sống sót sau từng ấy lần
bị cướp. Khi sang đến Mỹ, các Thầy bói, chiêm tinh, Phong Thuỷ gì gì… mới dựa
theo đó mà luận rằng: “Chín mà không có chín, tức là sống vậy”, nó cũng như 404
“Xỉ mà không xỉ, chết mà không chết” vậy. Đấy là một ý dựa trên sự việc đã xảy
ra rồi mới luận, nhưng nghe có vẻ hợp lý nên NCD đưa ra cho các anh chị, các bạn
xem thử.


_ 78: Con số này rất nhiều người khoái, vì hai lý do: Thứ
nhất, số 38 theo số đề là Thần Tài thì 78 phải là Đại Thần Tài rồi. Thứ hai,
trong tiếng Quảng Đông, hai chữ này phát âm nghe như “xách bạc”. Chính vì vậy mà
không ít người tìm mua số xe, số điện thoại… đều thích số này. Nhưng với NCD,
thì NCD đã từng khuyên nhiều người không nên (dĩ nhiên họ không tin và đã gặp
thất bại, cái này là thật chứ không phải NCD nói đùa đâu đấy). Vì sao? vì 7
& 8 là thất bát, có ai muốn mình bị thất bát không? Đã dùng đến ý nghĩa chữ
Hán, sao không dùng Âm chữ Hán theo nghĩa này? Huống chi Dịch là theo hiện tượng
mà ứng quẻ, khi số đã báo hiệu sự Thất Bát thì tất không thể dùng
vậy.


Do soạn chi tiết phải dài dòng quá, nên NCD chỉ tạm thời ghi
ra các số nét tốt theo Quẻ Dịch đã được soạn sẵn trong các tài liệu chữ Hoa, các
số nét được xem là tốt gồm:


1, 3, 5,
6, 7, 8, 11, 13, 15, 16, 17, 18, 21, 23, 24, 25, 29, 31, 32, 33, 35, 37, 39, 41,
45, 47, 48, 52, 63, 65, 67, 68, 73, 81.


Các số
trên 81 nét thì cứ trừ đi 81, lấy số dư.


Như hôm
trước đã hứa, sau loạt bài về cơ sở kinh doanh và doanh nghiệp, nay NCD xin đăng
chi tiết thước Lỗ Ban từ 5cm đến 5m (500cm). Hiện nay trên thị trường có rất
nhiều loại thước LỖ BAN: 43cm, 48cm, 52cm, 23cm… Nay NCD xin giới thiệu hai
loại được xem là thông dụng, tức là đã in sẵn trên cây thước kéo bày bán trên
thị trường. Thước này có độ dài chính xác 42,9 3/4 cm.


Xin các
anh chị, các bạn hãy nhớ cho: Hàng trên dùng cho Dương Trạch, Hàng dưới dùng cho
Âm Trạch. Ở đây, vì không để choán chỗ nhiều, nên NCD sẽ ghi chung hàng, cách
nhau bởi một vạch ngang, mong các anh chị thông cảm nhé!


5cm:
Nghinh Phúc_ Khẩu Thiệt, Bệnh Lâm.


6- 7-
8cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.


9cm: Lao
Chấp_ Hỷ Sự.


10cm: Cô
Quả_ Tấn Bửu.


11cm:
Trường Khố_ Nạp Phúc.


12- 13-
14- 15cm: Trên dưới đều xấu , kỵ dùng.


16cm:
Thất Thoát_ Đại Cát.


17cm:
Thiêm Đinh_ Tài Vượng.


18cm: Ích
Lợi_ Ích Lợi.


19cm: Quý
T _ Thiên Khố.


20cm: Quý
Tử_ Phú Quý.


21cm: Đại
Cát_ Tấn Bửu.


22cm:
Thuận Khoa_ Hoạnh Tài.


23cm:
Hoạnh Tài_ Thuận Khoa.


24cm:
Hoạnh Tài_ Ly Hương.


25cm: Tấn
Ích_ Tử Biệt.


26cm: Phú
Quý_ Thoái Đinh.


27cm:
Trên dưới đều xấu.


28cm: Tử
Biệt_ Đăng Khoa.


29cm:
Thoái Khẩu_ Quý Tử.


30cm: Ly
Hương_ Thiêm Đinh.


31cm: Ly
Hương_ Hưng Vượng.


32- 33-
34- 35cm: Trên dưới đều xấu.


35,2-
36cm: Bệnh Lâm_ Nghinh Phúc.


36,5-37cm: Khẩu Thiệt_ Lục Hợp.


38-38,5cm: Tài Chí_ Tấn Bửu, Tài Đức.


39-39,5cm: Đăng Khoa, Phúc Tinh.


40cm:
Đăng Khoa_ Cập Đệ.


41cm: Tấn
Bửu_ ĐINH (ĐINH là chủ bốn cung tốt nhỏ ở hai bên).


42,5cm:
Hưng Vượng_ Đăng Khoa.


43cm: Tài
Đức_ Khẩu Thiệt.


44cm: Tài
Đức_ Bệnh Lâm.


44,5cm:
Tấn Bửu_ Bệnh Lâm.


45cm: Bửu
Khố_ HẠI (HẠI là chủ bốn cung xấu nhỏ ở hai bên).


45,5cm:
TÀi_ Tử Tuyệt (TÀI là chủ của bốn cung tốt nhỏ ở hai bên).


46cm: Lục
Hợp_ Tai Chí ( xin cẩn thận đây là TAI chư không phải TÀI).


47cm: Lục
Hợp_ Thiên Đức.


48cm:
Nghinh Phúc_ Hỷ Sự.


49cm:
Thoái Tài_ Tấn Bửu.


50cm:
Công Sự_ Nạp Phúc.


51- 51-
53- 54cm: Trên dưới đều xấu , kỵ dùng.


55cm:
Kiếp Tài_ Đại Cát.


56cm:
Kiếp Tài_ Tài Vượng.


57cm:
Quan Quỷ_ Ích Lợi.


58cm:
Thất Thoát_ Thiên Khố.


59cm:
Thất Thoát_ Phú Quý.


60cm:
Thiêm Đinh_ Tấn Bửu.


61cm: Ích
Lợi_ Hoạnh Tài.


62cm: Quý
Tử_ Thuận Khoa.


63cm: Quý
Tử_ Ly Hương.


64cm: Đại
Cát_ Tử Biệt.


65cm:
Thuận Khoa_ Thoái Đinh.


66cm:
Hoạnh Tài_ Thất Tài.


67cm:
QUAN_ Đăng Khoa (QUAN là chủ bốn cung tốt nhỏ ở hai bên).


68cm: Tấn
Ích_ Quý Tử.


69cm: Phú
Quý_ Thiêm Đinh.


70cm: Tử
Biệt_ Hưng Vượng.


71- 72-
73- 74cm: Trên dưới đầu xấu, kỵ dùng.


74,5cm:
Tài Thất_ Nghinh Phúc.


75,5cm:
Tai Chí_ Lục Hợp (cẩn thận, lại là TAI).


76,5-
77cm: Tử Tuyệt_ Tấn Bửu.


77,5cm:
Tử Tuyệt_ Tài Đức.


78,5cm:
Bệnh Lâm_ Phúc Tinh.


79cm:
Bệnh Lâm_ Cập Đệ.


80cm:
Khẩu Thiệt_ ĐINH.


81cm: Tài
Chí_ Tài Vượng.


81,5cm:
Tài Chí_ Đăng Khoa.


82cm:
Đăng Khoa_ Khẩu Thiệt.


83cm:
BỔN_ Bệnh Lâm (BỔN là chủ bốn cung tốt nhỏ ở hai bên).


84cm: Tấn
Bửu_ HẠI.


84,5cm:
Tấn Bửu_ Tử Tuyệt.


85cm:
Hưng Vượng_ Tai Chí (lại là TAI, cẩn thận ).


86cm: Tài
Đức_ Thiên Đức.


87cm: Tài
Đức_ Hỷ Sự.


87,5cm:
Bửu Khố_ Hỷ Sự.


88cm: Bửu
Khố_ Tấn Đinh.


88,5cm:
TÀI_ Tấn Bửu (TÀI là chủ bốn cung tốt ở hai bên).


89cm: Lục
Hợp_ Nạp Phúc.


90cm:
Nghinh Phúc_ Thất Thoát.


91cm:
Nghinh Phúc_ Quan Quỷ.


92- 93-
93,5: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.


94cm:
BỆNH_ Đại Cát (BỆNH là chủ bốn cung xấu nhỏ ở hai bên).


95cm: Lao
Chấp_ Tài Vượng.


96cm: Cô
Quả_ ích Lợi.


97cm:
Trường Khố_ Thiên Khố.


98cm:
Kiếp Tài_ Phú Quý.


99cm:
Kiếp Tài_ Tấn Bửu.


100cm:
Quan Quỷ_ Hoạnh Tài.




101cm:
Thất Thoát_ Thuận Khoa.


102cm:
Thiêm Đinh_ Ly Hương.


103cm:
Thiêm Đinh_ Tử Biệt.


104cm:
Ích Lợi_ Thoái Đinh.


105cm:
Quý T _ Thất Tài.


106cm:
Quý Tử_ Đăng Khoa.


107cm:
Đại Cát_ Quý Tử.


108cm:
Thuận Khoa_ Thiêm Đinh.


109cm:
Hoạnh Tài_ Hưng Vượng.


110cm:
QUAN_ Cô Quả (QUAN là chủ bốn cung tốt nhở ở hai bên).


110,5cm:
Tấn Ích_ Lao Chấp.


112cm:
Phú Quý_ Công Sự.


113cm:
Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.


113,5cm:
Tử Biệt_ Nghinh Phúc.


114,5cm:
Thoái Khẩu_ Lục Hợp.


116cm: Ly
Hương_ Tấn Bửu.


117cm:
Tài Thất_ Tài Đức.


117,5cm:
Tài Thất_ Phúc Tinh.


118cm:
Tài Thất_ Cập Đệ.


118,5cm:
Tai Chí_ Cập Đệ (lại là TAI, cẩn thận)


119,5-
120cm: Tử Tuyệt_ Tài Vượng.


120,5cm:
Tử Tuyệt_ Đăng Khoa.


121- 122-
123cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.


123,5cm:
Tài Chí_ Tử Tuyệt.


124cm:
Tài Chí_ Tai chí (cẩn thận, hàng dưới là TAI).


125cm:
Đăng Khoa_ Thiên Đức.


126cm:
BỔN_ Hỷ Sự.


127cm:
Tấn Bửu_ VƯỢNG.


127,5cm:
Tấn Bửu_ Tấn Bửu.


128cm:
Hưng Vượng_ Nạp Phúc.


129cm:
Tài Đức_ Thất Thoát.


130cm:
Tài Đức_ Quan Quỷ.


130,5cm:
Bửu Khố_ Quan Quỷ.


131cm:
Bửu Khố_ Kiếp Tài.


132cm:
Lục Hợp_ Vô Tự.


133cm:
Nghinh Phúc_ Đại Cát.


134cm:
Nghinh Phúc_ Tài Vượng.


135cm:
Thoái Tài_ Ích Lợi.


136cm:
Công Sự_ Thiên Khố.


137cm:
Lao Chấp_ Phú Quý.


138cm:
Lao Chấp_ Tấn Bửu.


139cm: Cô
Quả_ Hoạnh Tài.


140cm:
Trường Khố_ Thuận Khoa.


141- 142-
143- 144cm: trên dưới đều xấu, kỵ dùng.


144,5cm:
Thất Thoát_ Đăng Khoa.


145cm:
Thiêm Đinh_ Đăng Khoa.


145,5-
146cm: Thiêm Đinh_ Quý Tử.


147cm:
Ích Lợi_ Thiêm Đinh.


148cm:
Quý Tử_ Hưng Vượng.


149cm:
Đại Cát_ Cô Quả.


149,5cm:
Đại Cát_ Lao Chấp.


150,5-
151cm: Thuận Khoa_ Công Sự.


151,5-
152cm: Hoạnh Tài_ Thoái Tài.


152,5cm:
Hoạnh Tài_ Nghinh Phúc.


153,5cm:
Tấn Ích_ Lục Hợp.


154,5-
155cm: Phú Quý_ Tấn Bửu.


155,5cm:
Phú Quý_ Tài Đức.


156,5cm:
Tử Biệt_ Phúc Tinh.


157cm:
Thoái Khẩu_ Cập Đệ.


158cm:
Thoái Khẩu_ ĐINH.


159cm: Ly
Hương_ Tài Vượng.


159,5cm:
Ly Hương_ Đăng Khoa.


160- 161-
162- 163,5cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.


164cm:
Bệnh Lâm_ Thiên Đức.


165cm:
Bệnh Lâm_ Hỷ Sự.


165,5cm:
Khẩu Thiệt_ Hỷ Sự.


166,5cm:
Tài Chí_ Tấn Bửu.


167cm:
Tài Chí_ Nạp Phúc.


168cm:
Đăng Khoa_ Thất Thoát.


169cm:
BỔN_ Quan Quỷ.


170cm:
Tấn Bửu_ Kiếp Tài.


171cm:
Hưng Vượng_ Vô Tự.


172cm:
Tài Đức_ Đại Cát.


173cm:
Bửu Khố_ Tài Vượng.


174cm:
Bửu Khố_ Ích Lợi.


175cm:
Lục Hợp_ Thiên Khố.




176cm:
Nghinh Phúc_ Phú Quý.


177cm:
Nghinh Phúc_ Tấn Bửu.


178cm:
Thoái Tài_ Hoạnh Tài.


179cm:
Công Sự_ Thuận Khoa.


180- 181-
182- 183cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.


184cm:
Kiếp Tài_ Đăng Khoa.


184,5cm:
Kiếp Tài_ Quý Tử.


186cm:
Quan Quỷ_ Thiêm Đinh.


187cm:
Thất Thoát_ Hưng Vượng.


188cm:
Thiêm Đinh_ Cô Quả.


188,5cm:
Thiêm Đinh_ Lao Chấp.


189,5cm:
Ích Lợi_ Công Sự.


191cm:
Quý Tử_ Thoái Tài.


191,5cm:
Quý Tử_ Nghinh Phúc.


192,5cm:
Đại Cát_ Lục Hợp.


193,5cm:
Thuận Khoa_ Tấn Bửu.


194,5-
195cm: Hoạnh Tài_ Tài Đức.


195,5cm:
Hoạnh Tài_ Phúc Tinh.


196,5cm:
Tấn Ích_ Cập Đệ.


197,5-198cm: Phú Quý_ Tài Vượng.


198,5cm:
Phú Quý_ Đăng Khoa.




199- 200-
201- 202,5cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.


203cm:
Tài Thất_ Thiên Đức.


204cm:
Tai Chí_ Hỷ Sự (là TAI chứ không phải TÀI).


205,5cm:
Tử Tuyệt_ Tấn Bửu.


206cm: Tử
Tuyệt_ Nạp Phúc.


207- 208-
209cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.


209,5cm:
Tài Chí_ Kiếp Tài.


210cm:
Tài Chí_ Vô Tự.


211cm:
Đăng KHoa_ Đại Cát.


212cm:
BỔN_ Tài Vượng.


213cm:
Tấn Bửu_ Ích Lợi.


214cm:
Hưng Vượng_ Thiên Khố.


215cm:
Tài Đức_ Phú Quý.


215,5cm:
Tài Đức_ Tấn Bửu.


216cm:
Bửu Khố_ Tấn Bửu.


217cm:
TÀI_ Hoạnh Tài.


218cm:
Lục Hợp_ Thuận Khoa.


219cm:
Nghinh Phúc_ Ly Hương.


219,5cm:
Nghinh Phúc_ Tử Biệt.


220-
221-222cm: Trên dưới đếu xấu, kỵ dùng.


223cm:
Lao Chấp_ Đăng Khoa.


224cm:
Lao Chấp_ Quý Tử.


225cm: Cô
Quả_ Thiêm Đinh.


226cm:
Trường Khố_ Hưng Vượng.


227- 228-
229- 230cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.


230,5cm:
Thất Thoát_ Nghinh Phúc.


231,5cm:
Thiêm Đinh_ Lục Hợp.


232,5cm:
Ích Lợi_ Tấn Bửu.


233,5cm:
NGHĨA_ Tài Đức (NGHĨA là chủ bốn cung tốt nhỏ ở hai bên).


234cm:
Quý Tử_ Tài Đức.


234,5cm:
Quý Tử_ Phúc Tinh.


235cm:
Đại Cát_ Cập Đệ.


236,5-
237cm: Thuận Khoa_ Tài Vượng.


237,5cm:
Hoạnh Tài_ Đăng Khoa.


238cm:
Hoạnh Tài_ Khẩu Thiệt.


239cm:
Tấn Ích_ Bệnh Lâm.


240cm:
Tấn Ích_ HẠI.


240,5cm:
Phú Quý_ Tử Tuyệt.


241,5cm:
trên dưới đều xấu, kỵ dùng.


242cm: Tử
Biệt_ Thiên Đức.


243cm:
Thoái Khẩu_ Hỷ Sự.


244cm:
KIẾP_ VƯỢNG.


244,5cm:
Ly Hương_ Tấn Bửu.


245cm: Ly
Hương_ Nạp Phúc.


246- 247-
248- 249,5cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.


250cm:
Bệnh Lâm_ Đại Cát.


251cm:
Khẩu Thiệt_ Tài Vượng.


252cm:
Khẩu Thiệt_ Tấn Ích.


253cm:
Tài Chí_ Thiên Khố.


254cm:
Đăng khoa_ Phú Quý.


255cm:
BỔN_ Tấn Bửu.


256cm:
Tấn Bửu_ Hoạnh Tài.


257cm:
Hưng Vượng_ Thuận Khoa.


258cm:
Tài Đức_ Ly Hương.


259cm:
Bửu Khố_ Tử Biệt.


260cm:
TÀI_ Thoái Đinh.


261cm:
Lục Hợp_ Thất Tài.


262cm:
Nghinh Phúc_ Đăng Khoa.


262,5cm:
Nghinh Phúc_ Quý Tử.


263cm:
Thoái Tài_ Quý Tử.


264cm:
Thoái Tài_ Thiêm Đinh.


265cm:
Công Sự_ Hưng Vượng.


266- 267-
268- 269cm: trên dưới đều xấu, kỵ dùng.


270cm:
Kiếp Tài_ Nghinh Phúc.


271cm:
LY_ TÀI.


272cm: Quan Quỷ_ Tấn Bửu.


273cm:
Thất Thoát_ Tài Đức.


273,5cm:
Thất Thoát_ Phúc tinh.


274cm:
Thiêm Tinh_ Cập Đệ.


275cm:
Ích Lợi_ ĐINH.


276cm:
Ích Lợi_ Tài Vượng.


276,5cm:
NGHĨA_ Đăng Khoa.


277cm:
Quý Tử_ Khẩu Thiệt.


278cm:
Đại Cát_ Bệnh Lâm.


279-
280cm: Thuận Khoa_ Tử Tuyệt.


280,5cm:
Hoạnh Tài_ Tai Chí.


281cm:
Hoạnh Tài_ Thiên Đức.


282-
283cm: Tấn Ích_ Hỷ Sự-VƯỢNG.


283,5cm:
Phú Quý_ Tấn Bửu.


284cm:
Phú Quý_ Nạp Phúc.


285- 286-
287- 288cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.


289cm:
Tài Thất_ Đại Cát.


290cm:
Tai Chí_ Tài vượng.


291cm: Tử
Tuyệt_ Ích Lợi.


292cm: Tử
Tuyệt_ Thiên Khố.


293cm:
Bệnh Lâm_ Phú Quý.


294cm:
Khẩu Thiệt_ Tấn Bửu.


295cm:
Khẩu Thiệt_ Hoạnh Tài.


295,5cm:
Tài Chí_ Hoạnh Tài.


296cm:
Tài Chí_ Thuận Khoa.


297cm:
Đăng Khoa_ Ly Hương.


298cm:
BỔN_ Tử Biệt.


299cm:
Tấn Bửu_ Thoái Đinh.


300cm:
Hưng Vượng_ Tài Chí.




301cm:
Tài Đức_ Đăng Khoa.


302cm:
Bửu khố_ Quý Tử.


303cm:
TÀI_ Thiêm Đinh.


304cm:
Lục Hợp_ Hưng Vượng.


305cm:
Nghinh Phúc- Cô Quả.


305,5cm:
Nghinh Phúc_ Lao Chấp.


306- 307-
308cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.


309cm:
Lao Chấp_ Nghinh Phúc.


309,5cm:
Lao Chấp_ Lục Hợp.


310cm: Cô
Quả_ TÀI.


311cm: Cô
Quả_ Tấn Bửu.


312cm:
Trường Khố_ Tài Đức.


312,5cm:
Kiếp Tài_ Phúc Tinh.


313cm:
Kiếp Tài_ Cập Đệ.


314cm:
LY_ ĐINH.


315cm:
Quan Quỷ_ Tài Vượng.


315,5cm:
Thất Thoát_ Đăng Khoa.


316cm:
Thất Thoát_ Khẩu Thiệt.


317cm:
Thiêm Đinh_ Bệnh Lâm.


318cm:
Ích Lợi_ HẠI.


318,5cm:
Ích Lợi_ Tử Tuyệt.


319cm:
NGHĨA_ Tai Chí.


319,5cm:
Quý Tử_ Tai Chí.


320cm:
Quý Tử_ Thiên Đức.


321cm:
Đại Cát_ Hỷ Sự.


322cm:
Thuận Khoa_ VƯỢNG.


323cm:
Thuận Khoa_ Nạp Phúc.


323,5cm:
Hoạnh Tài_ Nạp Phúc.


324cm:
Hoạnh Tài_ Thất Thoát.


325cm:
Tấn Ích_ Quan Quỷ.


326cm:
Phú Quý_ Kiếp Tài.


327cm:
Phú Quý_ Vô Tự.


328cm: Tử
Biệt_ Đại cát.


329cm:
Thoái Khẩu_ Tài Vượng.


330cm:
KIẾP_ Ích Lợi.


331cm: Ly
Hương_ Thiên Khố.


332cm:
Tài Thất_ Phú Quý.


333cm:
Tai Chí_ Tấn Bửu.


334cm: Tử
Tuyệt_ Hoạnh Tài.


335cm:
HẠI_ Thuận Khoa.


336-
337,5: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.


338cm:
Tài Chí_ Thoái Đinh.


339cm:
Tài Chí_ Thất Tài.


340cm:
Đăng Khoa_ Đăng Khoa.


341cm:
Tấn Bửu_ Quý tử.


342cm:
Tấn Bửu_ Thiêm Đinh.


343cm:
Hưng Vượng_ Hưng Vượng.


344cm:
Tài Đức_ Cô Quả.


345cm:
Bửu Khố_ Lao Chấp.


346cm:
TÀI_ Công Sự.


347cm:
Lục Hợ _ Thoái Tài.


348cm:
Nghinh Phúc_ Nghinh Phúc.


348,5cm:
Nghinh Phúc_ Lục Hợp.


349cm:
Thoái Tài_ TÀI.


350cm:
Công Sự_ Tấn Bửu.


351cm:
Công Sự_ Tài Đức.


351,5cm:
Bệnh_ Phúc Tinh.


352cm:
Lao Chấp_ Cập Đệ.


353cm: Cô
Quả_ ĐINH.


354cm: Cô
Quả_ Tài Vượng.


354,5cm:
Trường Khố_ Đăng Khoa.


355-3 56-
357- 358,5cm: trên dưới đều xấu, kỵ dùng.


359cm:
Thất Thoát_ Thiên Đức.


360cm:
Thiêm Đinh_ Hỷ Sự.




361cm:
Ích Lợi_ Vượng.


361,5cm:
Ích Lợi_ Tấn Bửu.


362cm:
NGHĨA_ Nạp Phúc.


362,5cm:
Quý Tử_ Nạp Phúc.


363cm:
Quý Tử_ Thất Thoát.


364cm:
Đại Cát_ Quan Quỷ.


365cm:
Thuận Khoa_ Kiếp Tài..


366cm:
Hoạnh Tài_ Vô Tự


367cm:
Hoạnh Tài_ Đại Cát.


368cm:
Tấn Ích_ Tài Vượng.


369cm:
Phú Quý_ ích Lợi.


370cm:
Phú Quý_ Thiên Khố.


370,5cm:
Tử Biệt_ Thiên Khố.


371cm: Tử
Biệt_ Phú Quý.


372cm:
Thoái Khẩu_ Tấn Bửu.


373cm:
KIẾP_ Hoạnh Tài.


373,5cm:
Ly Hương_ Hoạnh Tài.


374cm: Ly
Hương_ Thuận Khoa.


375- 376-
377- 378cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.


378,5-
379cm: Bệnh Lâm_ Đăng Khoa.


380cm:
Khẩu Thiệt_ Quý Tử.


381cm:
Tài Chí_ Thiêm Đinh.


382cm:
Tài Chí_ Hưng Vượng.


383cm:
Đăng Khoa_ Cô Quả.


384cm:
Tấn Bửu_ Lao Chấp.


384,5cm:
Tấn Bửu_ Công Sự.


385cm:
Hưng Vượng_ Công Sự.


386cm:
Hưng Vượng_ Thoái Tài.


387cm:
Tài Đức_ Nghinh Phúc.


388cm:
Lục Hợp_ Bửu Khố.


389cm:
TÀI_ Tấn Bửu.


390cm:
Lục Hợp_ Tài Đức.


390,5cm:
Nghinh Phúc_ Phúc Tinh.


391cm:
Nghinh Phúc_ Cập Đệ.


392cm:
Thoái Tài_ ĐINH.


393cm:
Công Sự_ Tài Vượng.


393,5cm:
Công Sự_ Đăng Khoa.


394cm:
BỆNH_ Đăng Khoa.


395-396-
397- 397,5cm: trên dưới đều xấu, kỵ dùng.


398cm:
Trường Khố_ Thiên Đức.


398,5cm:
Kiếp Tài_ Thiên Đức.


399cm:
Kiếp Tài_ Hỷ Sự.


400cm:
Quan Quỷ_ VƯỢNG.


400,5cm:
Quan Quỷ_ Tấn Bửu.


401,5cm:
Thất Thoát_ Nạp Phúc.


402cm:
Thất Thoát_ Thất Thoát.


402,5cm:
Thiêm Đinh_ Thất Thoát.


403cm:
Thiêm Đinh_ Quan Quỷ.


404cm:
Ích Lợi_ Kiếp Tài.


405cm:
NGHĨA_ Vô Tự.


405,5cm:
Quý Tử_ Vô Tự.


406cm:
Quý Tử_ Đại Cát.


407cm:
Đại Cát_ Tài Vượng.


408cm:
Thuận Khoa_ Ích Lợi.


409cm:
Hoạnh Tài_ Thiên Khố.


410cm:
Hoạnh Tài_ Phú Quý.


411cm:
Tấn Ích_ Tấn Bửu.


412cm:
Phú Quý_ Hoạnh Tài.


413cm:
Phú Quý_ Thuận Khoa.


414-415-
416- 417cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.


417,5-
418cm: Tài Thất_ Đăng Khoa.


418,5-
419cm: Tai Chí_ Quý Tử.


420cm: Tử
Tuyệt_ Thiêm Đinh.


421cm:
HẠI_ Hưng Vượng.


422cm:
Bệnh Lâm_ Cô Quả.


423cm:
Khẩu Thiệt_ Lao Chấp.


424cm:
Tài Chí_ Công Sự.


425cm:
Đăng Khoa_ Thoái Tài.


426cm:
Đăng Khoa_ Nghinh Phúc.


426,5cm:
BỔN_ Lục Hợp.


427cm:
Tấn Bửu_ TÀI.


427,5cm:
Tấn Bửu_ Tấn Bửu.


428cm:
Hưng Vượng_ Tấn Bửu.


429cm:
Hưng Vượng_ Tài Đức.


429,5cm:
Tài Đức_ Phúc Tinh.


430cm:
Tài Đức_ Cập Đệ.


431cm:
Tấn Bửu_ ĐINH.


432cm:
TÀI_ Tài Vượng.


432,5cm:
Lục Hợp_ Đăng Khoa.


433cm:
Lục Hợp_ Khẩu Thiệt.


433,5cm:
Nghinh Phúc_ Khẩu Thiệt.


434cm:
Nghinh Phúc_ Bệnh Lâm.


435-
436,5cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.


437cm:
BỆNH_ Thiên Đức.


437,5cm:
Lao Chấp_ Thiên Đức.


438cm:
Lao Chấp_ Hỷ Sự.


439cm: Cô
Quả_ VƯỢNG.


439,5cm:
Cô Quả_ Tấn Bửu.


440cm:
Trường Khố_ Nạp Phúc.


441- 442-
443- 444,5cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.


445cm:
Thất Thoát_ Đại Cát.


445,5cm:
Thiêm Đinh_ Đại Cát.


446cm:
Thiêm Đinh_ Tài Vượng.


447cm:
Ích Lợi_ Ích Lợi.


448cm:
NGHĨA_ Thiên KHố.


448,5cm:
Quý Tử_ Thiên Khố.


449cm:
Quý Tử_ PHú Quý.


450cm:
Đại Cát_ Tấn Bửu.


451cm:
Thuận Khoa_ Hoạnh Tài.


452cm:
Hoạnh Tài_ Thuận Khoa.


453cm:
Hoạnh Tài_ Ly Hương.


454cm:
Tấn Ích_ Tử Biệt.


455cm:
Phú Quý_ Thoái Đinh.


456cm:
Trên dưới đều xấu, kỵ dùng


457cm: Tử
Biệt_ Đăng Khoa.


458cm:
Thoái Khẩu_ Quý Tử.


459cm: Ly
Hương_ Thiêm Đinh.


460cm: Ly
Hương_ Hưng Vượng.


461- 462-
463- 464cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.


464,5cm:
Bệnh Lâm_ Nghinh Phúc.


465,5cm:
Khẩu Thiệt_ Lục Hợp.


467cm:
Tài Chí_ Tấn Bửu.


467,5cm:
Tài Chí_ Tài Đức.


468cm:
Đăng Khoa_ Tài Đức.


468,5cm:
Đăng Khoa_ Phúc Tinh.


469cm:
Đăng Khoa_ Cập Đệ.


470cm:
Tấn Bửu_ ĐINH.


470,5cm:
Tấn Bửu_ Tài Vượng.


471cm:
Hưng Vượng_ Tài Vượng.


471,5cm:
Hưng Vượng_ Đăng Khoa.


472cm:
Tài Đức_ Khẩu Thiệt.


473cm:
Tài Đức_ Bệnh Lâm.


474cm:
Bửu Khố_ HẠI.


474,5cm:
TÀI_ Tử Tuyệt.


475,5cm:
Lục Hợp_ Tài Chí.


476cm:
Lục Hợp_ Thiên Đức.


476,5cm:
Nghinh Phúc_ Thiên Đức.


477cm:
Nghinh Phúc_ Hỷ Sự.


477,5cm:
Thoái Tài_ Hỷ Sự.


478,5cm:
Thoái Tài_ Tấn Bửu.


479cm:
Công Sự_ Nạp Phúc.


480- 481-
482- 483,3cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.


484cm:
Kiếp Tài_ Đại Cát.


485cm:
Kiếp Tài_ Tài Vượng.


486cm:
Quan Quỷ_ Ích Lợi.


487cm:
Thất Thoát_ Thiên Khố.


488cm:
Thất Thoát_ Phú Quý.


489cm:
Thiêm Đinh_ Tấn Bửu.


490cm:
Ích Lợi_ Hoạnh Tài.


491cm:
Quý Tử_ Thuận Khoa.


492cm:
Quý Tử_ Ly Hương.


493cm:
Đại Cát_ Tử Biệt.


494cm:
Thuận Khoa_ Thoái Đinh.


495cm:
Hoạnh Tài_ Thất Tài.


496cm:
QUAN_ Đăng Khoa.


497cm:
Tấn Ích_ Quý Tử.


498cm:
Phú Quý_ Thiêm Đinh.


498,5cm:
Phú Quý_ Hưng Vượng.


499cm: Tử
Biệt_ Hưng Vượng.


500cm:
Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.




Trên đây
là một loại trong các loại Thước Lỗ Ban lưu hành trong dân gian. Trong đó, chia
ra làm 8 Cung lớn: TÀI- LY- BỆNH- NGHĨA- QUAN- KIẾP- HẠI- BỔN, vốn là 8 cạnh của
Bát Quái kéo thành đường thẳng vậy. Nó cũng tượng cho các Sao trong Cửu
Tinh:


_ TÀI: sao Tham Lang.


_ LY: sao
Vũ Khúc.


_ BỆNH: sao Phá Quân.


_ NGHĨA:
sao Cự Môn.


_ QUAN:
sao Văn Khúc.


_ KIẾP:
sao Liêm Trinh.


_ HẠI:
sao Lộc Tồn.


_ BỔN:
sao Phụ Bật.


Trên thị
trường hiện nay cũng có một loại Thước Lỗ Ban (loại kéo ra, cuộn 5m hoặc 7m50
như trên) cũng cùng kích thước 42,9cm nhưng chỉ khác một chút ở tên gọi các cung
thôi. Loại Thước này cũng phân ra 8 cung, khởi đầu thước là Cung Tài Lộc (dùng
gọn 1 chữ TÀI), kế đến là Cung Phước Đức (chữ ĐỨC), Cung Lục Hại (chữ HẠI), Cung
Kiếp Đạo (chữ KIẾP), Cung Quan Lộc (chữ QUAN), Cung Mỹ Thuận (chữ THUẬN), Cung
Sanh Tang (chữ SANH), Cung Trường Bệnh (chữ BỆNH).


Các cung
nhỏ bên trong thì cũng giống đến 8/10 với các cung này, về ý nghĩa thì hai bên
vẫn tương đồng. Các Cung tốt bên này là TÀI, NGHĨA, QUAN, BỔN. Các Cung tốt bên
kia là Tài Lộc, Phước Đức, Quan Lộc, Mỹ Thuận. Các cung nhỏ bên trong
như:


Sanh Vượng <=> Hưng Vượng.


Âm
Đức<=> Tài Đức.


Thiện
Sanh <=> Bửu Khố.


Tấn Đinh
<=> Thiêm Đinh.


Quý
Nhân<=>Quý Tử.


Thuận Lợi
<=>Thuận Khoa.


Ích Lợi
<=> Hoạnh Tài .


Trong
phép dùng Thiên Xích xưa, còn bốn loại Thước này cũng khá phổ biến là Tử Phòng
Xích, Khúc Xích Lỗ Ban Xích, Huyền Nữ Xích.




Từ trước
tới nay chúng ta thường hay nói trong Phong Thuỷ có hai trường phái chính:
trường phái chú trọng về hình thể sơn mạch thì gọi là Loan Đầu, trường phái
chuyên chú trọng về Tinh Sao, phương vị thì gọi là Lý Khí. Thực ra, Địa Mạch là
khí đi ở dưới đất, hình chiếu lên trời, vì vậy sinh khí của trời (các Tinh tú)
đều ứng vào các Quẻ, tức là thông cả Luật Lữ Thiên Địa Khí cảm ứng. Lấy các hào
của Quẻ Hỗn Thiên để hỗ trợ cho Lai Long và Tọa Huyệt thì được vẹn toàn, tất cả
đều căn cứ vào Thiên Tinh, Địa Diệu làm chính. Học về Địa Lý, có người chuyên
dụng về Thiên Tinh, có người chuyên dụng về Loan Đầu, chia ra phe phái phân
biệt, mỗi môn làm một cách. NHƯNG đấy là họ chưa thấu cái ý của các bậc Tiền
hiền: Loan Đầu là Thể, Thiên Tinh là Dụng, Thể và Dụng đều liên quan, hỗ ứng cho
nhau thì mới toàn mỹ được. Tinh tú trên trời chia ra khắp núi sông, Địa khí lưu
hành dưới đất đâu đâu cũng có, phản ứng lên trời, cho nên Cổ nhân mới dạy: “Địa
thừa Thiên khí ” là vậy. Phong Thuỷ học vốn không xa rời cái LÝ của Kinh Dịch,
nên càng không thể tách rời Thể và Dụng. Hai bản thể này cùng song song tồn tại,
hỗ tương cho nhau trong từng phần của khoa Phong Thuỷ. Chẳng hạn Đại Sư Phong
Thuỷ Dương Quân Tùng dùng Cửu Tinh để xem LONG, Đại Sư Phong Thuỷ Lại Bố Y thì
dùng Nhị Thập Bát Tú để xem SA- THỦY (cái lý bảo “tại THiên” chính do đây mà ra
vậy, chữ Thiên chính là Thiên Tinh chứ không phải Trời định). Theo khoa Phong
Thuỷ, ngôi Bắc Đẩu chính là Huyệt Trường, các Long là Cửu Tinh, SaThủy là Nhị
Thập Bát Tú. Tất cả gộp lại chẳng phải Thể Dụng hợp nhất, đan xen vào nhau đó
ư?


NCD tôi nói dài dòng như thế để xin dẫn đến một phép xem
kích thước Lỗ Ban trong Dương Trạch ngày xưa, cũng không ra ngoài cái lý Thể
Dụng. Cách tính của cách này như sau:


_ Từ vách
trái sang vách phải.


_ Từ chỗ
giọt nước mái hiên trước đến cửa chính.


_ Từ vách
cửa chính đến vách kế.


_…( lần
lượt từng đoạn cách khoảng giửa các vách trong nhà).


_ Từ vách
ngăn áp chót đến vách hậu.


đều theo
đúng Bộ Số của bốn Trực: TRỪ, ĐỊNH, CHẤP, KHAI.


Tuyệt đối
tránh rơi vào bốn Trực: MÃN, BÌNH, THÂU, BẾ.


Tổng tất
cả số đo ấy qui vào một cũng hợp với Bộ Số bốn Trực ấy gọi là Thiên
Hợp.


Tổng chu vi nhà cũng hợp với Bộ Số của bốn Trực ấy gọi là
Địa Hợp.


THIÊN & ĐỊA tương ứng như vậy chính là Âm Dương tương
hợp vậy.


Dương Trạch khi đã Phân Kim, Lập Hướng, xác định phân phòng
cho từng khu vực, đặt Bếp, kê giường .. .vv..xong thì đã là TĨNH, là Thể rồi.
Riêng các vách có thể điều chỉnh cho kích thước hợp với Bộ Số, nên vẫn còn ĐỘNG,
là Dụng. Cho nên, có thể nói, trong Dương Trạch thì Trạch là Thể, Kích Thước là
Dụng. Thể & Dụng gồm đủ hợp ý nghĩa Tiên Hậu Thiên nhất gia, thì Phúc lành
mới toàn mỹ được. Nếu có một cái phạm vào Hung Tinh thì khó khỏi sự lo phiền
phức vậy.




CÁCH TÍNH
CÁC BỘ SỐ TRỰC:


Người xưa
dùng 4 thước 5 tấc làm một Bộ, 9 thước làm hai Bộ, 13 thước 5 tấc làm ba
Bộ…


1 thước cổ = 20cm3mm thước Tây hiện
nay.


==> 1 BỘ = 4 thước 5 tấc = 91cm
3,5mm


So đối với 12 Trực, thì Bộ đầu là Kiên, Bộ thứ hai là Trừ ,
Bộ thứ ba là Mãn…


Chiều cao
của mái nhà phải tương xứng với chiều sâu căn nhà theo tỷ lệ
1/3.


SINH TÀI VƯỢNG VỊ VÀ VIỆC ĐẶT THẦN TÀI




Hôm nay
NCD tôi muốn bàn về vấn đề mà có lẽ từ nhà thường cho đến cơ sở kinh doanh mua
bán đều quan tâm: Đó là phương Sinh Vượng và cách đặt Tài
Thần.


Phương vị này còn được gọi là “TÀI VỊ”, nó khác với phương
Chính Thần trong Huyền Không học. Có ba thuyết nói về phương vị này khác
nhau:


_ Thuyết thứ nhất là theo trường phái Huyền Không, chọn
phương Chính Thần làm phương của TÀI VỊ.


_ Thuyết
thứ hai là theo Phi Tinh của Huyền Không, cho rằng phương của Tam Bạch phi đến
mới là phương của TÀI VỊ. Tam Bạch chính là: Nhất Bạch, Lục Bạch và Bát
Bạch.


_ Thuyết thứ ba là chọn phương chéo với cửa ra vào làm
phương TÀI VỊ.


Riêng bản
thân NCD thì chọn theo thuyết thứ ba. Hai thuyết trên nói cũng có lý nhưng không
thích hợp lắm. Nếu một lúc nào đó Vượng Khí Chính Thần hay Tam Bạch Tinh phi đến
phương vị Cửa, chẳng lẽ đem Tài Thần ra đặt ở đấy à? Huyền Không Phi Tinh có
nhiều điểm rất hay, nó có thể giải thích các hiện tượng động đất, sụp lỡ, hỏa
hoạn, trộm cướp, chết người, đau bệnh, làm ăn thua lỗ…vv… mà các trường phái
Bát Trạch Minh Cảnh và Dương Trạch Tam Yếu không thể giải thích thỏa đáng. Vì
các trường phái kia thuộc TĨNH, các phương vị, an sao đều cố định nên gặp nạn
tai thì không thể nói được, khi nhà và Sao đều vẫn tốt so với mạng gia chủ như
lúc đầu. Còn trường phái Huyền Không thì các Phi Tinh luân chuyển, khó có được
năm tháng ngày giờ trùng Sao lại như nhau (năm và tháng còn có thể nhưng thêm
ngày và giờ thì rất hiếm hoi). Lại thêm khi các sao đi đơn lẻ thì khác, đi kèm
với Sao khác thì có thể ý nghĩa biến đổi, hoặc còn ảnh hưởng với Sao của Trạch
Vận khác nhau mà cho kết quả khác nhau, Thiên hình Vạn trạng. Sự huyền diệu của
Phi Tinh là vậy, nhưng không phải lúc nào cũng cứng nhắc các Vượng Khí, Phi Tinh
vào Dương Trạch, phải biết lúc nào áp dụng phương pháp nào cho thích hợp. Không
phải vô tình mà người ta bố trí bàn làm việc nơi góc chéo với cửa ra vào, bởi nó
là nơi tập trung Quyền lực trong một căn phòng, là nơi Tàng Phong Tụ
Khí.


Theo khoa Phong Thuỷ thì tại phương TÀI VỊ này, người ta
thường đặt các cây xanh lá to hay các tượng Tài Thần. Phương TÀI VỊ này có một
số điều nên và không nên như sau:




1/. Các
điều NÊN ở TÀI VỊ:


_ Nơi
phương TÀI VỊ nên sáng sủa, quang minh, không thể để tối ám. Sáng là năng lượng
Dương, thích hợp với Dương Khí. Sinh Khí không ưa nơi tối tăm, nên phương này
tuyệt đối không nên để tối, nếu thiếu ánh sáng tự nhiên thì nên lắp thêm
đèn.


_ Nơi phương TÀI VỊ nên có Sinh Cơ, tức là chỉ nơi đây thiết
bày cây xanh là tốt, phải nhớ là trồng loại cây luôn luôn xanh tươi. Nhất là các
loại cây trồng bằng đất bùn (nê thổ), không thích hợp các loại cây trồng trong
nước. Nên kiếm các loại cây lá to, dầy, lá xanh mãi như cây Vạn Niên Thanh chẳng
hạn.


_ Nơi phương TÀI VỊ tốt nhất nên đặt bàn ngồi ở đấy, để cả
nhà thường xuyên ngồi ở đó, hít thở không khí của TÀI VỊ hay nói cách khác là
được thấm nhuần nguồn TÀI KHÍ nơi đó, sẽ giúp ích cho Tài Vận người trong
nhà.


_ Nơi phương TÀI VỊ nên đặt giường ngủ là rất thích hợp. Đến
đây thì có lẽ chúng ta đã hiểu vì sao các sách bày bán trên thị trường luôn
khuyên “đặt giường chéo góc với cửa phòng”, có điều họ không nói rõ ra nguyên ủy
bên trong thôi. 1/3 thời gian trong ngày con người nằm ngủ nghĩ nơi đó, thường
xuyên hít thở nguồn TÀI KHÍ nơi đó cũng rất tốt cho Tài Vận
vậy.


_ Nơi phương TÀI VỊ nên đặt vật hay biểu tượng Cát lành. Bởi
phương này là nơi Vượng Khí ngưng tụ, nếu ta đặt thêm một biểu tượng Cát Lành
thì tốt càng thêm tốt, như gấm thêu thêm hoa vậy. Biểu tượng này thường là các
Vật Khí kích hoạt Tài Lộc, tuỳ theo tính chất Ngũ Hành và Phi Tinh của Trạch Vận
Bàn nơi đó mà lựa chọn vật đặt cho thích hợp.




2/. Các
điều KỴ của TÀI VỊ:


_ Nơi
phương TÀI VỊ tối kỵ đặt các vật nặng như tủ sách, kệ sắt, máy móc nặng sẽ làm
tổn hại đến Tài Vận của phòng đó.


_ Nơi
phương TÀI VỊ tối kỵ THỦY. Đấy cũng là lý do vì sao ở trên kia lại bảo nơi đây
không thích hợp cho các loại cây trồng trong nước. Vì nơi đây là Cát Thần tọa
vị, nay ta đem nước đến là Cát Thần lạc Thủy, khéo hóa ra vụng
đấy!


_ Nơi phương TÀI VỊ phía sau nên có tường che chắn, không
thể trổ cửa, trổ cửa sổ, có vậy mới hợp cách cục “Tàng phong Tụ khí” trong Phong
Thuỷ, Tài Vận mới tụ được.


_ Nơi
phương TÀI VỊ tối kỵ bị các vật nhọn xung xạ đến như cạnh bàn, cạnh tủ..vv.. sẽ
làm tổn hại Tài Khí nơi đó.


_ Nơi
phương TÀI VỊ là nơi Cát Thần tọa vị nên ĐẠI KỴ ô uế, dơ bẩn. Vì vậy không thể
để vật ô uế, bụi bậm nơi đây.


_ Nơi
phương TÀI VỊ không nên để tối tăm, vì u tối thì Sinh Khí không sinh sôi được,
sẽ ảnh hưởng đến Tài Vận, sinh kế.




3/. Tài
Thần:


Nói đến Tài Thần thì có lẽ không ai không biết đấy là vị
Thần ban phước lộc, tiền tài, của cải cho mọi người. Thần Tài mà hôm nay NCD đề
cập đến không phải là Địa Chủ Tài Thần mà mọi người hay thờ. Địa Chủ Tài Thần là
một khuôn bài vị với hai dòng chữ ở giửa là : NGŨ PHƯƠNG NGŨ THỔ LONG THẦN TIỀN
HẬU ĐỊA CHỦ TÀI THẦN mà mọi người hay thờ, hai bên có hai câu đối (“Kim chi sơ
phát diệp_ Ngân thụ chánh hoa khai”, hay là “Thổ vượng nhân tòng vượng_ Thần an
trạch tự an”, hay là “Thổ năng sinh Bạch ngọc_ Địa khả xuất Hoàng kim”). Ngày
xưa người ta thường thờ Địa Chủ Tài Thần bên trong, bên ngoài thờ Môn Thần; ngày
nay do nhiều nơi không cho thờ cúng bên ngoài nên chỉ còn thờ mỗi Địa Chủ Tài
Thần bên trong, coi như vị Thần này kiêm luôn việc bảo hộ cho Trạch Chủ, không
cho tà ma xâm nhập.


Tài Thần
mà NCD đề cập ở đây là tượng Văn- Võ Tài Thần theo quan niệm người Hoa (vì vốn
dĩ thuật Phong Thuỷ truyền từ Trung Quốc sang đây nên NCD cũng soạn theo tư liệu
gốc của người Hoa vậy).


a/VĂN TÀI
THẦN:


Chia làm hai là Tài Bạch Tinh Quân và Tam Đa
Tinh.


_ Tài Bạch Tinh Quân: Ngoại hình như một vị trưởng giả giàu
có, mắt trắng râu dài, người mặc áo gấm thắt đai ngọc, tay trái ôm 1 thỏi Kim
Nguyên Bảo (thỏi vàng mả người ta hay để chưng nơi Thần Tài, nó cũng là một dụng
cụ hóa sát trong Phong Thuỷ), tay phải ôm tờ giấy cuốn lại có in dòng chữ “Chiêu
Tài Tiến Bảo”.


Theo
truyền thuyết ông vốn là Thái Bạch Kim Tinh trên thượng giới, chức tước là “Đô
Thiên chí phú Tài Bạch Tinh Quân” chuyên quản tiền tài vàng bạc của thiên hạ.
Nên người ta hay đặt tượng ông nơi TÀI VỊ, có người còn thờ ông
nữa.


_ Tam Đa Tinh: Nghe tên thì thấy lạ, nhưng thật ra đó là
Phước- Lộc- Thọ Tam Tinh đấy thôi.


Phúc Tinh
tay ôm đứa bé tượng trưng có con thì vạn sự đủ phúc khí. Lộc Tinh mặc triều phục
sặc sỡ, tay ôm Ngọc Như ý, tượng trưng thăng quan tiến chức, thêm tài tăng lộc.
Thọ Tinh tay ôm quả đào thọ, mặt lộ vẻ hiền hòa, hạnh phúc, tượng trưng cho an
khang trường thọ. Trong ba vị chỉ có Lộc Tinh mới là Tài Thần, nhưng do xưa nay
Tam Vị Nhất Thể đi chung không rời, nên người ta luôn làm chung tượng của 3 vị.
Nếu đặt cả Tam Tinh vào TÀi VỊ thì cả nhà an vui, hạnh phúc, phúc lộc song
thu.


Những người giữ chức văn, những người làm công nên đặt tượng
Văn Tài Thần nơi TÀI VỊ, hay thờ Văn Tài Thần.


Các tượng
Văn Tài Thần nên đặt quay mặt vào.




b/ VŨ TÀI
THẦN:


Cũng chia làm hai là: Triệu Công Minh miệng đen mặt đen, và
Quan Thánh Đế (còn gọi là Quan Công) mặt đỏ râu dài.


_ Triệu
Công Minh: Vị thần này nếu quý vị nào có xem qua truyện Phong Thần ắt biết tiểu
sử ông. Sau khi tử trận lên bảng Phong Thần, ông được Khương Tử Nha sắc phong
làm “Chính Nhất Long Hổ Huyền Đàn chân quân” thống lĩnh bốn vị Thần: Chiêu Bảo,
Nạp Trân, Chiêu Tài, Lợi Thị.


Ông vừa
giúp tăng tài, tiến lộc vừa có thể hàng ma phục yêu, nên một số người Hoa cũng
thích thờ ông, hay đặt tượng ông nơi TÀi VỊ, vừa giúp vượng tài, vừa giúp bình
an.


_ Quan Thánh Đế: Nói đến Ngài, có lẽ không cần xem truyện
Tam Quốc thì ai cũng từng nghe và biết. Gần như 99% người Hoa đều có thờ Quan
Thánh Đế trong nhà cả! Ông không chỉ tượng trưng cho Chính Khí sáng lòa, mà còn
có thể giúp cho người chiêu tài, tiến bảo, làm ăn thuận lợi, tai qua nạn khỏi,
trừ tà hộ thân.


Những
người làm quan võ, theo nghiệp lính, những ông chủ kinh doanh nên thờ Vũ Tài
Thần hoặc đặt tượng Vũ Tài Thần nơi phương TÀI VỊ.


Các tượng
VŨ Tài Thần nên đặt hướng ra cửa.


PHONG
THỦY CHO VIỆC ĐÀM PHÁN, THƯƠNG LƯỢNG




Trong
thực tế cuộc sống, khi ra làm ăn kinh tế, hay khi đi làm công chức nhà nước, làm
cơ quan, cty …vv… chúng ta ai cũng phải ít nhiều cần đến những cuộc thương
lượng, hay ở những vai trò cao hơn thì có những cuộc đàm phán để ký kết làm
ăn…vv…. Chúng ta có thể sử dụng Phong Thủy để hỗ trợ cho mình, mang lại vận
may khi thực hiện việc đàm phán, thương lượng (chứ không thể chắc chắn 100% đâu
nghen, chỉ giúp có vận may thôi, còn phần tài năng thì quý vị phải có thực tài,
chứ Phong Thủy không phải là phép Tiên, xin nhớ cho!)


Cách đơn
giản nhất là chọn chỗ ngồi đối diện với 1 trong 4 hướng tốt nhất, tính theo Quái
số của các anh chị, các bạn_ tức là cung Phi đấy. Hướng tốt nhất là Hướng Sinh
Khí, kế đến là hướng Phục Vì, hai hướng còn lại cũng được nhưng không tốt
bằng.


Nếu trong trường hợp không nhớ hướng tốt nhất của mình, hoặc
không thể xác định hướng nơi đó, thì xin hãy áp dụng cách
sau:


_ Chọn chỗ ngồi xa nhất so với cửa ra
vào.


_ Trong mọi tình huống đàm phán, thương lượng, không nên
ngồi quay lưng ra cửa, phải ngồi ở nơi luôn có thể nhìn thấy cửa ra
vào.


_ Không ngồi quay lưng ra cửa sổ, nếu như cửa sổ đó không
đối diện với một tòa nhà kiên cố.


_ Tránh
ngồi ngay bên dưới xà nhà.


_ Nên
chọn chỗ ngồi có chỗ để tay và lưng dựa cao.


_ Không
nên ngồi ở vị trí khiến chân mình hướng ra cửa.


_ Đại Kỵ
ngồi ở góc bàn, hay ngồi ở chỗ có cạnh bàn hay vật nhọn chĩa vào
người.


Trên đây là một số điều cần biết trong Phong Thủy khi đàm
phán, thương lượng. Ngoài ra, các anh chị, các bạn còn có thể dùng màu áo hay
màu của bình hoa tươi trên bàn để giúp cho cuộc đàm phán của
mình.


_ Màu xanh dương: Giúp diễn đạt những cách nghĩ và những ý
tưởng thuận lợi, để đạt được những lợi ích trong trường hợp phải ký hợp đồng,
hoặc phải thương lượng. Lúc thương lượng nếu gặp phải đối tượng khó thuyết phục,
thì màu xanh dương sẽ giúp chúng ta dùng lý trí sắt thép và điềm đạm để giải
quyết tốt vấn đề.


_ Màu đỏ:
Là màu khiến đối tác không thể giành được thế áp đảo, đồng thời còn có thể giúp
chúng ta học được cách phân tích tình hình mà biết tiến thoái đúng lúc, đúng
nơi, để trong quá trình đàm phán tránh được những cuộc gây gỗ và thương lượng
không thành công. Ngoài ra, màu đỏ còn giúp chúng ta làm cho đối tác yêu mến cá
tính và năng lực của chúng ta một cách tâm phục khẩu phục.


_ Màu
xanh ngọc bích: Giúp chúng ta có được những cách nghĩ sáng tạo và tư duy nhạy
bén, nhằm tăng khả năng ứng phó, để có được phản ứng nhanh kịp lúc, tạo ra những
quyết sách chính xác trong tình huống nguy cấp. Đồng thời còn giúp chúng ta nhìn
rõ các vấn đề cốt lõi còn tồn đọng ở đối tác, hầu có lợi ích trong các giao kèo
hợp đồng.


Nếu nơi
đàm phán chúng ta có thể chủ động, thì có thể đặt một lẵng hoa tươi với các
hoa:


Cúc Vân Nam (màu lam, tím)


Hoa cẩm
chướng (màu đỏ)


Lá bạc
(màu xanh ngọc bích)


trên bàn,
và trước khi bàn vào vấn đề, hãy nhìn vào lẵng hoa, hít một hơi thật sâu và
tưởng tượng làn hương của các bông hoa ấy len vào tâm trí mình. Có thể hít ngửi
hương của lẳng hoa ấy thật sâu vài hơi trước khi vào cuộc đàm
phán.


Với vài bí quyết nhỏ của Phong Thủy, mong các anh chị, các
bạn nào có các cuộc đàm phán, thương lượng sẽ gặp nhiều may mắn hơn
nhé!




DỌN DẸP
SAU KHI CÓ ĐẠI TANG




Một người
trong nhà qua đời, bạn phải làm sạch căn phòng mà người đó ở trước khi chết. Nếu
người đó mất vì bệnh tật, thì đồ đạc của họ nên chôn hoặc hỏa thiêu theo. Điều
này sẽ làm tiêu hủy bệnh tật. Với những người Á Đông chúng ta nói chung và người
theo Phật Giáo nói riêng, thì trong quá trình làm sạch phòng người mất, thường
có mời các nhà sư tụng kinh và cầu siêu. Tiếng chuông leng keng trong lúc hành
lễ là một nghi thức thanh lọc không khí vậy. Song song việc đó là thắp hương.
Năng lực tẩy sạch Khí Âm của nhang rất mạnh, nên cần lựa chọn nhang cẩn thận.
Thông thường, loại nhang tốt nhất trong trường hợp này là nhang trầm hoặc nhang
mùi đàn hương.


Vì vậy
hãy dùng: Chuông và Nhang


Đi quanh
căn phòng 3 lần theo chiều kim đồng hồ, vừa đi vừa gõ
chuông.


Sau đó lại đi 3 lần như vậy với nhang.


Nếu quý
vị nào là người tín ngưỡng Phật Giáo, thì có thể tăng cường thêm bằng cách đọc
Mật Chú trong lúc đi quanh phòng. (Có thể chỉ là Đại Bi Chú, Lục Tự Đại Minh Chú
hay các Mật Chú Tây Tạng khác).




LÀM SẠCH
KHÍ ÂM SAU KHI CÓ NGƯỜI MẤT




Sau khi
có người mất, cần phải tẩy rửa toàn bộ ngôi nhà với Dương Thủy. Có người dùng
nước trời mưa khi chưa chạm đất là Dưong Thủy, nhưng theo NCD thì dùng nước được
phơi dưới ánh nắng Mặt Trời chừng 3 giờ làm Dưong Thủy. Sau quá trình làm sạch
không gian bằng chuông và nhang, vào ngày “Thất” đầu tiên nên tẩy rửa toàn bộ
căn nhà bằng nước Duơng Thủy này. Khi làm việc tẩy rửa này, nhớ tẩy rửa cả nền
nhà, nước Dương Thủy sẽ thấm vào nền nhà, cung cấp Sinh khí và tẩy rửa năng
lượng chết chóc còn sót lại. Nếu đó là một căn hộ trong chung cư không tiện tẩy
rửa, thì dùng giẻ nhúng nước Dương Thủy này để lau nền nhà. Nhớ rằng ngày tốt
nhất dể làm diều này là ngày thứ 7 sau khi có người mất, tức là ngày cúng Thất
đầu tiên theo Đạo Phật.




PHONG
THỦY HƯƠNG HOA ĐỂ CẢI THIỆN QUAN HỆ MẸ CHỒNG- NÀNG DÂU




Trong
quan hệ Á Đông chúng ta xưa giờ, quan hệ mẹ chồng nàng dâu thường hay phát sinh
căng thẳng nhất. Hôm nay NCD xin hiến một cách cải thiện mối quan hệ này, với
liệu pháp Hương hoa.


Liệu pháp
này có thể dùng trong các trường hợp: nàng dâu ngang bướng không nghe lời dạy
bảo của mẹ chồng, bà mẹ chồng khó tính hay trách móc con dâu, cô dâu mới không
biết cách chung sống sao cho hòa hợp mẹ chồng, bà mẹ chồng không hiểu được ý cô
con dâu mới.




1/. Hoa
BÁCH HỢP THỦY HƯƠNG: Màu vàng chanh


Giải trừ
những cảm giác căng thẳng, bất an và có khoảng cách giửa mẹ chồng nàng dâu,
khiến giửa hai người không còn sự nghi kỵ lẫn nhau, những tình cảm chân thành tự
phát sẽ nảy sinh giửa hai người. Ngoài ra, nó còn giúp mẹ chồng nàng dâu hiểu
được niềm hạnh phúc và sự tôn trọng lẫn nhau, giảm nhẹ những ưu tư, căng thẳng,
giúp cho quan hệ mẹ chồng nàng dâu ngày càng tốt đẹp hơn.


2/. Hoa
THẠCH THẢO: Màu lam nhạt


Giúp tâm
hồn được thoải mái, vui vẻ, hiểu thấu tấm lòng nhau để quan hệ mẹ chồng nàng dâu
được tốt đẹp hơn, gần gũi hơn, thân tình hơn. Ngoài ra, màu này còn giúp hai
người có những hành động yêu thương thiết thực, cụ thể hơn, giúp hai người tăng
thêm lòng tự tin nương tựa vào đối phương, tránh được những hiềm khích giửa hai
người.


3/. Cách thức dùng:


Mỗi sáng
thứ 2, cắm những đóa hoa tươi mới và đặt chúng trong phòng khách hoặc trên bàn
ăn. Mỗi ngày hít 3 lần hương hoa này thật sâu vào buồng phổi, năng lượng và
hương thơm của hoa sẽ hòa quyện vào cơ thể bạn.


4/. Có
thể cắm một bình hoa với các loại:


bách hợp
thủy hương.


thạch
thảo.


lan tiểu thương.


hoàng kim
bách.




PHONG
THỦY HƯƠNG HOA LÀM CON CÁI VÂNG LỜI CHA MẸ




Cách này
dành cho những đứa trẻ hay chống đối, quậy phá, quá hiếu động hoặc quá khép kín,
không cởi mở và ít nói. Càng thích hợp dành cho những thanh thiếu niên mới lớn
thường hay bốc đồng.




1/. Hoa
HỒNG KIM BÁCH hay CÁT CÁNH: màu lục


Giúp các
bậc cha mẹ tăng thêm tính nhẫn nại với con cái, để cho mối quan hệ giửa cha mẹ
và con cái trở nên thuận hòa, nhằm có được không gian yên tĩnh để nghe ra ý của
nhau.


Ngoài ra, màu lục của các hoa này còn có thể giúp trẻ tập
trung chú ý, và chúng trở nên sâu sắc hơn, qua đó có thể hiểu được nỗi lòng của
cha mẹ chúng, đồng thời nâng cao khả năng phân tích tốt xấu để con cái nghe lời
cha mẹ.


2/. Hoa THẠCH THẢO: màu lam tím


Giúp
những đứa trẻ bị cản trở trong học tập hoặc chậm chạp trong ngôn ngữ và không
thích nói chuyện, luôn buồn rầu trở nên cởi mở, vui vẻ.


Đồng thời
giúp cho các thanh thiếu niên trong tuổi mới lớn có bản tính bốc đồng có thể trở
nên chín chắn hơn.


Ngoài ra,
hoa màu lam còn giúp trẻ phát triển tính sáng tạo, ham mê sách vỡ
hơn.


3/. Hoa THỦY TINH hoặc hoa ĐỒNG TIỀN: màu hồng
phấn


Giúp cho mối quan hệ giửa cha mẹ và con cái thêm tình yêu
thương, để con cái có thể hiểu và trân trọng những gì cha mẹ làm cho chúng. Giúp
cho trẻ có tính tự lập, tự lực khi không có cha mẹ gần bên, và giúp chúng cảm
nhận tình yêu thương bao la vô bờ bến của cha mẹ dành cho
chúng.


4/. cách thức dùng:


Đặt hoa
tươi trên bàn ăn, 1 tuần thay hoa mới 1 lần. Hãy cố gắng mỗi ngày cùng ăn cơm
với con mình 1 buổi.




Ngoài ra,
cũng nên kích thích cung Tử Tức_ cung Đoài. Xin lưu ý các bậc cha mẹ nào có con
gái cỡ tuổi thanh thiếu niên: TUYỆT ĐỐI TRÁNH ao- mương- hồ nước ở phía TÂY. Vì
Đoài vi Thiếu nữ, nếu nơi đây có Thủy, chủ…..Đại dâm, sẽ khiến trẻ sớm sa vào
con đường hư hõng, đàng đúm cùng bạn xấu. CẨN THẬN!




PHONG
THỦY HƯƠNG HOA GIÚP TÌM ĐƯỢC CÔNG VIỆC TỐT




Ngoài các
cách Động cung Nghề Nghiệp_HƯỚNG BẮC_ để kiếm việc làm ra, Phong Thủy còn có
liệu pháp hương hoa giúp chúng ta tìm được công việc tốt. Cách này dành cho
những ai muốn tìm cho mình một công việc tốt hơn, hay muốn thuyên chuyển chỗ
làm.




1/. Hoa
THẠCH THẢO: màu lam


Giúp tràn
đầy sức mạnh và năng lực biết được công việc mà bản thân muốn để nổ lực đạt
được. Nó giúp ta hiểu được tính cách của bản thân để tìm được công việc phù hợp
với mình, đồng thời giúp ta nhận rõ ước mơ của mình để từ đó theo đuổi và cố
gắng đạt được.


Ngoài ra,
màu lam của hoa Thạch Thảo còn giúp ta dù trong hoàn cảnh nào cũng kiên định với
lý tưởng, ước mơ của bản thân, giúp dung hòa giửa công việc và cuộc sống để bản
thân tự tin hơn.


2/. Hoa
LÊ PHỤNG SAN HÔ: màu đỏ


Giúp ta
hiểu rằng trước khi tìm được việc như ý, điều cần thiết là phải thật nỗ lực và
chịu học tập, có vậy mới làm việc được tốt, và tìm được công việc
tốt.


3/. Cách thức dùng:


Đặt hoa
trong văn phòng, phòng đọc sách, bàn làm việc, mỗi ngày hít thật sâu 3 lần hương
hoa, hương hoa và năng lượng của nó sẽ hòa vào Khí trường của cơ thể bạn, giúp
bạn trong việc tìm một công việc tốt.


4/. Có
thể chưng một lẳng hoa, một giỏ hoa gồm:


hoa Thạch
Thảo (màu lam).


hoa Lê
Phụng San Hô (màu đỏ).


quả dưa
Sơn Nam (màu cam).


tiểu lâm
đầu.


Hồng Trúc.


Hoàng Kim
Bách.


BÁT TRẠCH CHUYÊN SÂU


*****




A/. HUYỀN
KHÔNG BÁT TRẠCH




Nói đến
Huyền Không Bát Trạch, là phải nói đến bậc Thầy về Phong Thuỷ là Dương Quân Tùng
đời Đường, chính ông đã đưa ra những thuyết về Huyền Không cho Bát Trạch, chuyên
dùng để định Sa, Thủy, Lập Hướng cho Dương Trạch và Âm
Trạch.


Huyền Không Bát Trạch có 2 phần: Đại Huyền Không và Tiểu
Huyền Không. Dựa trên nguyên tắc Sinh, Khắc, Vượng, Tướng của Ngũi Hành mà
chọn.


1/. Tiểu Huyền Không Ngũ Hành:


Đây là
cách để đo lường Cát , Hung của Dương Trạch , Âm Trạch dựa trên Sa , Thủy. Lấy
Hướng mà định. Theo ông Dương Quân Tùng thì :


Bính Đinh
Dậu Ất thuộc Hỏa


Càn Khôn
Mẹo Ngọ thuộc Kim


Hợi Giáp
Cấn Quý thuộc Mộc


Tuất Canh
Sửu Mùi thuộc Thổ


Tý Dần
Thìn Tốn Tân Tị Thân Nhâm thuộc Thủy.


(cái này
thì các bạn phải tự học thuộc rùi nhé).


Thủy lai
( đến ) phải từ các Sơn có Ngũ Hành Vượng , Tướng.


Thủy khứ
( đi ) phải từ các sơn có Ngũ Hành Hưu , Tù.




Ví dụ cho
dễ hiểu nha : Một căn nhà tọa Nhâm hướng Bính chẳng hạn.


_ Mình
xem bảng ở trên thấy Bính thuộc Hỏa. Vậy thì các Hành Vượng Tướng so với Hỏa
chính là Hỏa ( cùng Hành với Hỏa , nên Hỏa là Vượng ) , và Mộc ( Mộc sinh Hỏa ,
nên Hỏa được Tướng ).


Vậy thì
các sơn có thể tiếp nhận Thủy lai là Bính, Đinh, Dậu, Ất, Hợi, Giáp, Cấn,
Quý.


_ Bính thuộc Hỏa , vậy thì các Hành Hưu Tù so với Hỏa chính
là Thổ ( Hỏa sinh xuất cho Thổ , nên Hỏa bị Hưu ) và Thủy ( Thủy khắc nhập Hỏa ,
nên Hỏa bị Tù )


vậy các
sơn để Thủy khứ là Tuất, Canh, Sửu, Mùi, Tý, Dần, Thìn, Tốn, Tân, Tị, Thân,
Nhâm.




Ví dụ nữa
nè : Một ngôi mộ tọa Thìn hướng Tuất.


_ Ta thấy
Hướng Tuất thuộc Thổ


Vậy thì
các Hành Vượng Tướng so với Thổ chính là : Thổ và Hỏa


=> các
sơn tiếp nhận Thủy lai là Bính, Đinh, Dậu, Ất, Tuất, Canh, Sửu,
Mùi.


_ Tuất thuộc Thổ


Vậy thì
các Hành Hưu Tù so với Thổ chính là : Kim và Mộc.


=> các
sơn để Thủy khứ là Càn, Khôn, Mẹo, Ngọ, Hợi, Giáp, Cấn,
Quý.




Khi ứng
dụng phép xem theo Tiểu Huyền Không ,phải dùng hoàn toàn Ngũ Hành theo Tiểu
Huyền Không này , chớ xen lẫn Ngũ Hành các thuyết khác. Bởi trong Bát Trạch ,
ngoài Chính Ngũ Hành , còn có Tiểu Huyền Không Ngũ Hành , Đại Huyền Không Ngũ
Hành , Hồng Phạm Ngũ Hành , Tam hợp cục Ngũ Hành , Nạp âm Ngũ Hành. Nếu dùng lẫn
lộn e sẽ xảy ra lầm lẫn đáng tiếc. Cẩn thận! Cẩn thận!


Đây chỉ
mới là cách tính thuận , phần sau mình sẽ bàn cách tính Nghịch , từ Thủy luận
ngược lại chọn Hướng cho Nhà và Mộ.


Ở trên là
nói về cách tính thuận, nhưng đó chỉ là cách trên sách vỡ thui. Còn thực tế,
chúng ta phải tính nghịch là thường nhất. Nghĩa là từ thế Thủy thực tế mà ta
chọn Hướng cho nhà ở hay mộ phần. Cách này thì mình làm ngược thui ý
mà!




Ví dụ cho
dễ hiểu: Đứng trên 1 cuộc đất, ta thấy Thủy lai đáo sơn Càn (Khi dùng chữ Thủy
Lai này, xin các bạn hiểu cho là NCD đang nói về Âm Trạch, mộ phần đó nhen!),
muốn chọn hướng cho Huyệt mộ, ta xét:


Càn theo
Tiểu Huyền Không Ngũ Hành là thuộc Kim.


Vậy các
Hướng cần lập là Kim và Thủy ( không còn là Kim và Thổ như cách tính thuận nữa
đâu , xin đừng lầm , lầm 1 cái là chít liền đó ). Tức là một cái đồng Ngũ Hành
với Thủy Lai, một cái là được Thủy Lai sinh cho.


=> các
hướng để lập mộ sẽ là Càn, Khôn, Mẹo, Ngọ, Tý, Dần, Thìn, Tốn, Tân, Tị, Thân,
Nhâm.


Dễ hén !




Thêm 1 ví
dụ nữa cho Dương Trạch đi : Với Dương Trạch , Thủy lai chính là các ngã đường
gần nhất so với cuộc đất mình chọn. Do đó , các bạn hay thấy SH yêu cầu người
cần tư vấn tả xem ngã 3-4 gần nhà nhất thuộc sơn gì so với nhà là vậy đó. Đứng
tại trung tâm đất đặt La bàn , chiếu tới ngã 3-4 gần đó nhất , xem nó rơi vào
sơn gì , thì đó chính là sơn của Thủy lai trong Dương
Trạch.


Nhà trong khu đô thị thường mình khó có thể xoay hướng khác
, trừ phi….nhà biệt thự . Mà thường nhất là nhà cố định hướng sẵn , trong
trường hợp này , mình vẫn xác định hướng Thủy lai để….Khai
môn.


Nhà tọa Cấn hướng Khôn đi, có ngã tư gần nhà nhất thuộc sơn
Càn.


Ta thấy theo Tiểu Huyền Không Ngũ Hành thì Càn thuộc
Kim.


Vậy các sơn có thể Khai môn sẽ thuộc : Kim và
Thủy


=> các sơn Khai môn là Càn, Khôn, Mẹo, Ngọ, Tý, Dần,
Thìn, Thân, Tốn, Tị, Nhâm, Tân.




2/. Đại
Huyền Không Ngũ Hành :


Đây cũng
là cách để định Thủy lai, Thủy khứ trong cả Dương trạch lẫn Âm trạch. Pháp này
được ghi lại trong Thiên Ngọc Kinh, 24 sơn cũng chia ra theo Ngũ Hành, cụ thể là
:


Tý, Dần, Thìn, Cấn, Bính, Ất thuộc Kim


Ngọ,
Thân, Tuất, Khôn, Nhâm, Tân thuộc Mộc


Mẹo, Tị,
Sửu, Càn, Canh, Đinh thuộc Thủy-Thổ


Dậu, Hợi,
Mùi, Tốn, Giáp, Quý thuộc Hỏa




Nguyên
tắc xét PT không ra ngoài sơn, hướng, sa, thủy.


Theo cách
tính của Đại HKNH, thì dùng Chi làm Chính thần, Can làm Linh thần. Nghĩa là Sơn
Hướng phải dùng các sơn thuộc Địa Chi, Thủy lai phải đến các sơn thuộc Thiên Can
hoặc Tứ duy (Càn, Khôn, Cấn, Tốn).


Khi xét
Thủy lai theo Đại HKNH, thì lấy thế Hướng và Thủy cùng Ngũ Hành và Tương
Sinh.


Nói khơi khơi như vậy chắc khó hiểu lắm, thôi để mình ghi ví
dụ cho dễ.




Ví dụ :
Nhà hay Mộ có các hướng thuộc Kim: Tý, Dần, Thìn.


nên chọn
Thủy lai ở các sơn Cấn, Bính, Ất (cùng Ngũ Hành), Càn, Canh, Đinh (tương sinh
).




Nhà hay
Mộ có các hướng thuộc Hỏa: Dậu, Hợi, Mùi (tương sinh).




Cũng như
cách Tiểu HKNH, đây là cách tính thuận, còn trên thực tế thường tính nghịch lại,
lấy Thủy thực tế mà chọn Hướng. Xin đừng quên!


Trong
thực tế , mình có thể áp dụng cả 2 phương pháp Đại và Tiểu HKNH chung với nhau
để định Thủy, hoặc lập hướng, khai môn.


Đứng
trước 1 thế đất nào đó , nếu xây mộ thì nhìn Thủy đáo sơn nào , nếu khai môn thì
xem giao lộ gần nhất ở sơn nào so với trung tâm , mình xét theo Đại HKNH thì nó
thích hợp với các sơn nào để lập hướng , khai môn ; rồi lại xét tiếp theo Tiểu
HKNH xem nó thích hợp với sơn nào. Mình gộp các sơn đó lại , chọn sơn nào có ở
cả 2 pp mà lấy. Có đôi khi , nó không thích hợp , chẳng hạn nếu chọn khai môn ở
bên hông nhà sao được ? Khi ấy ta phải dùng các pp khác nữa để chọn , cái này
NCD sẽ nói ở sau.


Ví dụ :
Cuộc đất có Thủy đáo sơn Khôn , muốn lập hướng cho mộ , ta tính thử xem nhé
!


Theo Tiểu HKNH thì Khôn thuộc Kim , vậy các sơn cần để lập
hướng phải thuộc Kim hay Thủy


=> các
sơn để lập hướng là : Càn, Khôn, Mẹo, Ngọ, Tý, Dần, Thìn, Tốn, Tân, Tị, Thân,
Nhâm.


Theo Đại HKNH thì Khôn thuộc Mộc, vậy các sơn cần lập hướng
phải thuộc Mộc và Hỏa


=> các
sơn để lập hướng là: Khôn, Nhâm, Tân, Tốn, Giáp, Quý.


Gộp cả 2
lại, ta thấy có các sơn thích hợp là: Khôn, Tốn, Tân, Nhâm.




Ví dụ nữa
: Nhà ở thành phố có giao lộ gần nhất thuốc sơn Tuất, muốn chọn sơn Khai môn, ta
tính thử xem:


Theo Tiểu
HKNH thì Tuất thuộc Thổ , vậy các sơn cần để Khai môn phải thuộc Thổ,
Hỏa


=> các sơn để Khai môn là: Tuất, Canh, Sửu, Mùi, Bính,
Đinh, Dậu, Ất.


Theo Đại
HKNH thì Tuất thuộc Mộc, vậy các sơn cần để Khai môn phải thuộc Mộc,
Hỏa


=> các sơn để Khai môn là: Khôn, Nhâm, Tân, Tốn, Giáp,
Quý


Gộp cả 2 lại, ta thấy không có sơn thích hợp. Như vậy, ta
phải dùng pp khác để chọn thôi.


B/. SONG
SƠN NGŨ HÀNH




Ta thấy 1
vòng Địa bàn có 24 sơn, mà trên tựa đề là Song sơn, như vậy đủ thấy rõ sẽ có 12
cặp trong 24 sơn.


Đây thực
ra chỉ là phương pháp chọn theo Tam hợp cục Ngũ Hành, và phối thêm các sơn đứng
trước mỗi chữ Địa chi đó thành 1 cặp thôi.


_ Dần,
Ngọ, Tuất là Tam hợp hóa Hỏa, nay thêm các sơn đứng kế trước nó, sẽ có Tam hợp
cục Hỏa theo song sơn như sau: Cấn, Dần, Bính, Ngọ, Tân,
Tuất.


_ Tị, Dậu, Sửu là Tam hợp hóa Kim, nay thêm các sơn kề trước
nó, sẽ có: Tốn, Tị, Canh, Dậu, Quý, Sửu là Tam hợp cục Kim theo song
sơn.


_ Thân, Tý, Thìn là Tam hợp hóa Thủy, nay thêm các sơn kế
trước nó, sẽ có Tam hợp cục Thủy theo song sơn là: Khôn, Thân, Nhâm, Tý, Ất,
Thìn.


_ Hợi, Mẹo, Mùi là Tam hợp hóa Mộc, nay thêm các sơn kề
trước nó, sẽ có Tam hợp cục Mộc theo song sơn như sau: Càn, Hợi, Giáp, Mẹo,
Đinh, Mùi.


Phương
pháp song sơn này được ứng dụng rất rộng rãi trong phép Tiêu sa, nạp
thủy.




Ví dụ :
Thế đất có Thủy lưu đáo sơn Nhâm.


Ta thấy
Nhâm thuộc Tam hợp Thủy cục, vậy các hướng cần chọn là Thân, Tý, Thin, rất
gọn.




Vì dụ :
Thế đất có Thủy đáo sơn Tân


Ta thấy
Tân thuộc Tam hợp Hỏa cục, vậy các hướng cần chọn là Dần, Ngọ, Tuất. Chííííít
liền đó !!! Đây là 1 cái bẫy. Vì sao ?


Trong
phép Tiêu sa, nạp Thủy, luôn luôn Thủy lai phải từ các sơn Sinh, Vượng, Lâm
Quan; Thủy khứ phải từ các sơn Mộ khố.


Ở đây,
Tuất là Mộ khố của cục Hỏa, nên chỉ có thể là Thủy khứ, nay Thủy lai, ta không
thể chọn theo phương pháp này được, mà phải dùng pp khác. Hãy cẩn
thận!


Do ở trên có đề cập tới Mộ khố của cuộc đất, nên giờ mình
giới thiệu tiếp luôn về pp Thập nhị thần


C/. THẬP
NHỊ THẦN ĐẠI PHÁP






Trong tất
cả các phương pháp Tiêu Sa – Nạp Thủy của Phong Thủy, thì đây là phương pháp
quan trọng nhất. Đây là biểu hiện trạng thái của vạn vật từ thai nghén đến sinh
trưởng, lớn lên cho đến suy tàn. Cụ thể như sau:


_ Tuyệt:
Biểu thị trạng thái không có gì, vạn vật chưa tượng hình, như trong bụng mẹ
trống không chưa mang thai.


_ Thai:
Tức là vạn vật phôi thai, mới tượng hình, nảy mầm. Cũng như bào thai mới thụ khí
bẩm sinh của cha mẹ.


_ Dưỡng:
Muôn vật đã hình thành, tựa như bào thai đã phát triển chờ ngày khai hoa nở
nhụy.


_ Trường sinh: Vạn vật bắt đầu sinh ra, như đứa trẻ lọt lòng
mẹ, còn rất yếu ớt, non nớt.


_ Mộc
dục: Vạn vật phát triển, như cây dần lớn lên, bắt đầu hứng chịu nóng lạnh, gió
mưa, bão táp. Như đứa trẻ mới lớn, vẫn còn cần vòng tay của cha
mẹ.


_ Quan đới: Như cây đã bắt đầu ra hoa, như người đã trưởng
thành.


_ Lâm quan: Như cây đã kết trái, như người thi cử đỗ đạt ra
làm quan, có được công việc ổn định.


_ Đế
vượng: Như trái đã chín mùi, như thời hưng vượng thành đạt nhất của đời người,
có được vinh hoa phú quý, hạnh phúc.


_ Suy:
Vạn vật từ Trưởng chuyển sang Tiêu, như người đã leo đến đỉnh núi tất phải quay
trở xuống vậy, như giai đoạn đời người đã lớn tuổi, đã nghỉ hưu. Như cây sau mùa
ra trái, bắt đầu suy yếu, kiệt dinh dưỡng vậy.


_ Bệnh:
Như người đã già yếu, bắt đầu bệnh tật xâm hại. Như cây suy yếu bị côn trùng,
nấm mối tấn công vậy.


_ Tử: Như
người đã già cỗi đến chết, như cây đã cằn cỗi chết đi.


_ Mộ: Như
người đã chôn xuống mộ sâu, mục rữa trở về đất lạnh.




Do ý
nghĩa 12 cung như vậy, nên người ta mới chọn Trường Sinh làm cung khởi đầu, lấy
tượng con người mới sinh ra làm giai đoạn đầu.


Trong đó
có 4 cung Cát nhất là: Trường Sinh, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng. Người ta dùng
4 Cát để Nạp Sa, Thu Thủy.


3 cung
trung bình là: Mộc Dục, Thai, Dưỡng ít dùng tới .


5 cung
Hung là: Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt. Người ta dùng 5 cung Hung để chọn sơn Thủy
Khứ (chảy đi).


Cách khởi
cung của Thập Nhị Thần này, khời từ Trường Sinh cho đến cuối cùng là Dưỡng, 12
cung trên 24 sơn, với mỗi cung là 2 sơn trong Song Sơn Ngũ Hành (đã nói ở trên).
Và phép khởi có 2 điểm cần lưu ý:


_ Khởi
cung dựa theo đặt tính Tam Hợp Cục Ngũ Hành của sơn Địa Chi trong song sơn, để
chọn cung Trường sinh ở đâu.


_ Khởi
cung Trường Sinh đi thuận nghịch là tùy theo thế đất Âm hay
Dương.




Thế đất
Âm hay Dương là gì?


Âm Long
là thế đất từ phải chạy sang trái, giống như đi ngược chiều kim đồng hồ
vậy.


Dương Long là thế đất chạy từ trái sang phải, giống như đi
thuận chiều kim đồng hồ vậy.


Thế đất
Dương phải phối với Thủy Âm _ Thế đất Âm phải phối với Thủy
Dương.


Thủy lưu Âm là dòng nước chảy từ phải sang trái, ngược chiều
kim đồng hồ là nghịch, nên gọi là Âm.


Thủy lưu
Dương là dòng nước chảy từ trái sang phải, thuận chiều kim đồng hồ, nên là
Dương.




Tam Hợp
Cục Ngũ Hành:


_ Dần Ngọ
Tuất là Hỏa cục: Dương khởi Trường Sinh tại Dần đi thuận, Âm khởi trường Sinh
tại Dậu đi nghịch.


_ Thân Tý
Thìn là Thủy cục: Dương khởi Trường Sinh tại Thân đi thuận, Âm khởi Trường Sinh
tại Mẹo đi nghịch.


_ Tị Dậu
Sửu là Kim cục: Dương khởi Trường Sinh tại Tị đi thuận, Âm khởi Trường Sinh tại
Tý đi nghịch.


_ Hợi Mẹo
Mùi là Mộc cục: Dương khởi Trường Sinh tại Hợi đi thuận, Âm khởi Trường Sinh tại
Ngọ đi nghịch.




Có 2 cách
để dễ nhớ cho các vòng Âm Dương này:


_ Cung
Lâm Quan của Dương là Đế Vượng của Âm, và ngược lại, Đế Vượng của Dương là Lâm
Quan của Âm.


_ Dương
khời Trường Sinh tại cung đầu tiên trong Tam Hợp, Âm khởi Trường Sinh tại cung
cuối cùng trong Tam Hợp lùi lại 1 cung.




Bây giờ
xin đi vào phần thực hành của phương pháp Thập Nhị Thần
này:


Khi Nạp Sa phải dùng Sơn (Long) của Mộ phần để
nạp.


Thu Thủy phải dùng Hướng của Mộ phần để
định.


Với Dương Trạch chỉ dùng Sơn của nhà để định
thôi.




Ví dụ 1 :
Ngôi mộ Cấn Long, Đinh Hướng. Thế đất Dương.


a/. Nạp
sa


_ Thế đất Dương là khởi thuận.


_ Cấn
Long thuộc song sơn Cấn Dần, thuộc Tam hợp Hỏa cục (Dần Ngọ
Tuất)


_ Là Dương Hỏa cục nên khởi Trường sinh tại Dần => Mộc
dục tại Giáp Mẹo, Quan đới tại Ất Thìn, Lâm Quan tại Tốn Tị, Đế Vượng tại Bính
Ngọ, Suy tại Đinh Mùi…..Dưỡng tại Quý Sửu.


_ Các
cung để Nạp Sa là: Cấn, Dần, Ất, Thìn, Tốn, Tị, Bính, Ngọ.


b/. Thu
thủy


_ Đinh Hướng thuộc song sơn Đinh Mùi, thuộc Tam hợp Mộc cục
(Hợi Mẹo Mùi)


_ Là
Dương Mộc cục nên khời Trường sinh tại Càn Hợi => Mộc dục tại Nhâm Tý, Quan
Đới tại Quý Sửu, Lâm Quan tại Cấn Dần, Đế Vượng tại Giáp Mẹo, Suy tại Ất
Thìn….Dưỡng tại Tân Tuất.


_ Các
cung để Thu Thủy là: Càn, Hợi, Quý, Sữu, Cấn, Dần, Giáp,
Mẹo.


c/. Nếu là khởi cho Dương Trạch :


_ Đinh
Hướng thì tất là Quý Sơn.


_ Quý
thuộc Song sơn Quý Sửu, thuộc Tam hợp Kim cục (Tị Dậu Sửu)


_ Là
Dương Kim cục nên khởi Trường Sinh tại Tốn Tị => Mộc dục tại Bính Ngọ, Quan
Đới tại Đinh Mùi, Lâm Quan tại Khôn Thân, Đế Vượng tại Canh Dậu, Suy tại Tân
Tuất….Dưỡng tại Ất Thìn.




Ví dụ 2 :
Ngôi mộ Tọa Canh Hướng Giáp. Thế đất Dương.


a/. Nạp
sa:


_ Thế đất Dương nên đây là cục Dương , khởi
thuận.


_ Tân thuộc song sơn Canh Dậu, thuộc Tam Hợp Kim cục (Tị Dậu
Sửu)


_ Là Dương Kim cục nên khởi Trường sinh tại Tốn Tị => Mộc
dục tại Bính Ngọ, Quan Đới tại Đinh Mùi, Lâm Quan tại Khôn Thân, Đế Vượng tại
Canh Dậu, Suy tại Tân Tuất….Dưỡng tại Ất Thìn.


_ các
cung để Nạp Sa là: Tốn, Tị, Đinh, Mùi, Khôn, Thân, Canh,
Dậu.


b/. Thu Thủy:


_ Giáp
thuộc Song sơn Giáp Mẹo , thuộc Tam hợp Mộc cục (Hợi Mẹo
Mùi)


_ Là Dương Mộc cục nên khởi Trường sinh tại Càn Hợi =>
Mộc dục tại Nhâm Tý, Quan Đới tại Quý Sửu, Lâm Quan tại Cấn Dần, Đế Vượng tại
Giáp Mẹo, Suy tại Ất Thìn….Dưỡng tại Tân Tuất.


_ Các
cung để Thu Thủy là : Càn , Hợi , Quý , Sửu , Cấn , Dần , Giáp ,
Mẹo.


c/. Nếu khởi cho Dương Trạch :


_ Tọa
Canh thuộc Song sơn Canh Dậu , thuộc Tam hợp Kim cục ( Tị Dậu Sửu
)


_ Là Dương Kim cục nên khởi giống ở VD
trên.






Ví dụ 3 :
Ngôi mộ Tọa Tân Hướng Ất. Thế đất Âm.


a/. Nạp
Sa :


_ Thế đất Âm nên khởi nghịch.


_ Tọa Tân
thuộc song sơn Tân Tuất , thuộc Tam hợp Hỏa cục ( Dần Ngọ Tuất
).


_ Là Âm Hỏa cục nên khởi Trường Sinh tại Canh Dậu => Mộc
dục tại Khôn Thân , Quan Đới tại Đinh Mùi , Lâm Quan tại Bính Ngọ , Đế Vượng tại
Tốn Tị , Suy tại Ất Thín….Dưỡng tại Tân Tuất.


_ Các
cung để Nạp Sa là : Canh , Dậu , Đinh , Mùi , Bính , Ngọ , Tốn ,
Tị.


b/. Thu Thủy :


_ Hướng
Ất thuộc Song sơn Ất Thìn , thuộc Tam hợp Thủy cục ( Thân Tý Thìn
).


_ Là Âm Thủy cục nên khởi Trường Sinh tại Giáp Mẹo => Mộc
dục tại Cấn Dần , Quan Đới tại Quý Sửu , Lâm Quan tại Nhâm Tý , Đế Vượng tại Càn
Hợi , Suy tại Tân Tuất….Dưỡng tại Ất Thìn.


_ Các
cung để Thu Thủy là : Giáp , Mẹo , Quý , Sửu , Nhâm , Tý , Càn ,
Hợi.


c/. Nếu là Dương Trạch :


_ Tọa Tân
thuộc Song sơn Tân Tuất , thuộc Tam hợp Hỏa cục ( Dần Ngọ Tuất
).


_ Là Âm Hỏa cục nên khởi Trường Sinh tại Canh Dậu => Mộc
dục tại Khôn Thân , Quan Đới tại Đinh Mùi , Lâm Quan tại Bính Ngọ , Đế Vướng tại
Tốn Tị , Suy tại Ất Thìn….Dưỡng tại Tân Tuất.




***Lưu ý
:


Đối với Dương Trạch, nếu nhà ở nông thôn, thì Sa, Thủy dùng
như Sa, Thủy của Mộ phần Âm Trạch (Chân Sơn núi, đồi; Chân thủy sông, rạch,
suối).


Nhưng ở khu đô thị thì sao ? Ở thánh phố, lấy các nhà cao
tầng nhất trong khu đó, hay các khu gần đó làm Sa; lấy các giao lộ ngã 3-4-5 gần
nhà làm Thủy.


Trong Lý
thuyết thì chúng ta lấy từ Sơn (Long), Hướng ra để chọn Nạp Sa, Thu Thủy, NHƯNG
trong thực tế, thường những cái đó đã có trước, cho nên ta thường phải làm ngược
lại. Tức là từ Sa, Thủy có sẵn đó, ta chọn Hướng phù hợp với Sa, Thủy đó =>
Nhìn thế đất Dương hay Âm trước, sau đó xác định Sa, Thủy đó rơi vào 4 cung Cát
nào (Trường Sinh, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng) của CỤC nào, từ đó xác định Sơn
Hướng




Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

0585662660
Liên hệ