Thiên đồng tinh – Toàn thư
thủy. Tại Đẩu sao Thiên đồng là sao thứ tư thuộc Nam Đẩu, tại Số sao
Thiên đồng theo cung vị thứ sáu thuộc Bắc Đẩu, của phép định cục an sao Thiên
bàn. Hóa khí là phúc, cung chủ là cung phúc thọ, có khả năng kéo dài tuổi
thọ, giải ách, chế hóa. Nếu miếu vượng thì không sợ kiếp sát xâm hại, không sợ
nằm đồng cung với các hung tinh, Thiên đồng nằm ở 12 cung đều chủ phúc
thọ.
Tuổi trẻ chủ
về Phúc.
Tuổi già chủ về
Thọ.
Phúc nhiều thì Thọ ít.
Phúc ít thì Thọ
nhiều.
Sao Thiên đồng có
phúc, nên không cần phải nỗ lực cũng có thể hóa giải được hung hại của sáu sát
tinh Hỏa Linh Kình Đà Không Kiếp một cách tự nhiên, hơn nữa, lực xung sát của
các sát tinh lại có thể tăng cường sức sáng tạo của sao Thiên đồng, nhưng lại
dẫn đến cảm giác “có phúc không biết hưởng” hay “số vất
vả“.
Sao Thiên đồng có
khả năng tăng tuổi thọ, bảo vệ sinh mệnh, là sao hưởng phúc, chủ về cuộc đời
bình yên, coi trọng hưởng thụ vật chất. Mệnh nam gặp sao này sẽ thiếu ý chí,
thiếu quyết tâm, thường chỉ biết nói mà không biết làm, không có nỗ lực phấn đấu
vươn lên, không có quyết tâm sáng tạo đổi mới, bởi vậy, sao này hợp với mệnh nữ
không hợp với mệnh nam.
Thiên đồng hóa
Lộc là tốt, chủ về hưởng thụ, có “khẩu phúc” (được ăn ngon), nhưng tính
cách dễ lười biếng uể oải. Sao Thiên đồng hóa Quyền chủ về vất vả, không được
hưởng phúc. Nếu đồng thời gặp sao Khoa và Quyền, thì không những không lười
biếng, mà còn là người lạc quan, tích cực tiến thủ. Thiên đồng hóa Kị chủ về bận
rộn vất vả, kỵ nhất lại gặp hai sao Văn xương và Văn khúc, vì hai sao này đều là
sao Giờ, nên tính hung của chúng (kém hài hòa, gặp nhiều bất mãn, hoặc mất
vân bằng chức năng cơ thể) sẽ ập đến rất nhanh, khiến cho những phúc đức của
Thiên đồng sẽ nhanh chóng tiêu biến.
Sao Thiên đồng
gặp cát tinh sẽ tốt lành, gặp Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Thiên lương,
chủ về hiển quý. Hợp với người sinh năm Nhâm Ất, miếu vượng mà trấn mệnh tại
cung Tị, Hợi, không hợp với người sinh năm Canh. Đóng tại cung Thìn, Mão không
tốt, đóng tại cung Dậu Tuất chủ về oán hận, không nên rơi vào cung mệnh, thân.
Gặp bốn sát tinh Kình Đà Hỏa Linh trấn tại Tị Hợi là hình và hãm, dễ bị tàn tật
cô độc.
Sao Thiên đồng
chủ về hài hòa, dễ tính, có phúc, nhưng đến trung niên hoặc về già mới được
hưởng phúc, tuổi nhỏ và lúc trẻ phải vất vả nỗ lực. Nếu như sao Thiên đồng chỉ
chủ về sống để hưởng phúc, thì thời trẻ không thể tự lập nghiệp, vận thế dễ gặp
trở ngại.
Thái âm và Thiên
đồng nếu trấn tại mệnh, hoặc trấn Điền trạch tại Tý, là cách “Nguyệt sinh
thương hải” (trăng mọc trên biển) chủ về sẽ có được chức quan cao quý. Nếu
bốn sao Thiên cơ, Thái âm, Thiên đồng, Thiên lương tập hợp lại ba cung Mệnh –
Tài – Quan là cách “Cơ Nguyệt Đồng Lương” có lợi cho sự nghiệp giáo dục,
văn hóa, truyền thông đại chúng. Nếu Thiên đồng và Thái âm trấn mệnh tại Ngọ,
lạc hãm lại gặp sát tinh, tạo thành cách “Nguyệt Đồng ngộ sát“, chủ về
thân hình gầy gò hư nhược, gặp nhiều chuyện không như ý.
MỆNH
cách
đồng tọa thủ cung Mệnh thường có thân hình tròn đầy, tướng mạo đẫy đà, khuôn mặt
như đứa trẻ, mắt thanh mày ngài, ánh mắt hiền dịu, khuôn mặt trông phúc hậu, với
người nữ thì da trắng, tướng mạo thanh tú.
Là người
khiêm tốn dịu dàng, hết lòng tuân thủ, ứng đối có lễ nghĩa, nhân từ thẳng thắn,
mềm mỏng hòa nhã tinh thông. Phàm là làm việc lớn hóa nhỏ, có mới nới cũ, có ý
tưởng kế hoạch nhưng lại thường không có giới hạn, vì vậy mà nói thì nhiều mà
làm thì ít, có tính hài hước và tính trẻ con.
tranh chấp với người khác, nhẫn nại mà chẳng bận tâm phiền não, không hay tính
toán với người nên cũng không hay phải tức giận vô cớ, xong thì thôi vì vậy duy
trì quan hệ với mọi người ở mức độ giao tiếp.
lý giải tốt, tính thích ứng cao, thích làm việc thiện, yêu văn nghệ, chú trọng
đến hưởng thụ cuộc sống, thích đầu tư vào hình thức ăn mặc sang trọng. Thích
cuộc sống nhàn hạ, việc gấp cũng từ từ, lạc quan nhưng không tích cực, được
chăng hay chớ, cổ nhân thường gọi là người “trí túc thường
lạc“
Thiên đồng thủ
mệnh nữ nước da trắng, thông minh lanh lợi, phong cách nụ cười hấp dẫn mọi
người, rất có duyên, hay nhận được ánh mắt quan tâm của nam giới, thể hiện hình
thức quý phái, thường không quan tâm đến lĩnh vực khoa
học.
Thiên đồng + 4
|
Thiên đồng – 2
Thái âm – 1
|
Cự môn – 1
Thiên đồng – 1
|
Thiên đồng + 3
Thiên lương – 2
|
Thiên đồng = 0
|
|
|
Thiên đồng = 0
|
Thiên đồng = 0
|
|
|
Thiên đồng = 0
|
Thiên đồng + 1
Thiên lương + 4
|
Cự môn – 1
Thiên đồng – 1
|
Thiên đồng + 3
Thái âm + 4
|
Thiên đồng + 4
|
của sao Thiên
đồng tọa thủ 12
cung
Chữ số trong
bảng biểu thị độ sáng của sao Thiên đồng.
Mối quan hệ của chúng như
sau:
– Miếu = + 4
– Vượng = +
3
– Địa =
+ 2
– Lợi = +
1
– Bình hòa = 0
–
Không đắc địa = – 1
– Hãm địa =
– 2
Phúc tinh, phúc của sao Thiên đồng là “không lo lắng trước mọi việc“, làm
việc gì cũng không nôn nóng, thích an nhàn tự tại, lúc thuận thì hưởng thụ cuộc
sống, lúc nghịch cảnh thì cũng “nhìn theo chiều hướng tốt“, “trong
khổ ải vẫn thấy niềm vui“, “vui trong
sự vất vả“. Chính vì vậy, người có sao Thiên đồng tọa
thủ cung mệnh, thì cho dù là gia cảnh bần hàn, cũng sống cảnh an nhàn tự
đắc.
Người có
sao Thiên đồng thủ mệnh thiên bẩm đã có phúc, tự nhiên được hưởng những
vật chất tốt hơn người khác, hoặc được sinh ra trong gia đình tương đối có tiền
của, hoặc cho dù là gia cảnh nghèo khó cũng được hưởng thụ vật chất hơn người,
đồng thời người Thiên đồng thủ mệnh rất dễ phát phì.
Sao Thiên đồng và
sao Thiên lương đều có cái phúc trời phú, đó là làm thì ít mà hưởng thì nhiều,
nhưng hai sao cũng có những điều không giống nhau như:
Thứ nhất – sao Thiên đồng
có lòng dạ tâm địa phúc đức của chính thần, gương mặt như trẻ con, tính cách trẻ
con, giống một đứa trẻ bướng bỉnh. Còn sao Thiên lương thì giống như một người
già, thích nói khoác, thích được người khác phụng sự mình như lão Phật tổ, thích
được người khác tôn thờ mình.
Thứ hai – sao Thiên lương
là “âm tinh”, cuộc đời thường bị che phủ, biểu hiện ra bên ngoài giống như đang
được hưởng phúc, nhưng kỳ thực trong lòng thì lại đang có “nỗi niềm” tự thấy có
khổ cực, tức cái vỏ bọc bề ngoài dường như đang được hưởng phúc là do nhận được
sự chiếu cố, kỳ thực bên trong lại rất khổ tâm. Sao Thiên đồng thì không như
vậy, nó chỉ là “biểu hiện trong ngoài hợp nhất”, trong ngoài đều vui vẻ lạc
quan, cho dù có nỗi khổ thì thường vẫn quan niệm khá đơn thuần, dễ nói ra và dễ
xử lý.
Thứ ba – sao Thiên lương
mặc dù có “Âm” quý nhưng lại chủ “thanh cao”, cũng có thể so sánh với cuộc sống
hưởng thụ vật chất tương đối tốt. Sao Thiên đồng thì có “vận” quý nhân mạnh, nên
không bị áp lực tâm lý và khó khăn nào, chi phối đời sống chỉ muốn hưởng thụ an
nhàn.
Do bản thân sao
Thiên đồng hiểu được cách theo đuổi hưởng thụ cuộc sống về mặt vật chất và tinh
thần, nên không chỉ dốc hết tâm sức, mà hơn nữa, lại còn suy nghĩ hộ người khác,
luôn muốn hưởng thụ tốt hơn nữa mặc dù bản thân điều kiện chưa cho phép, chưa
thể tự mình tạo ra môi trường tốt. Do vậy, ăn, mặc, ở, đi, lại, là những nhu cầu
giản yếu, khi một loại nhu cầu nào đó khiến con người ta thoải mái, đều có thể
khiến cho sao Thiên đồng phát triển được tài năng.
Sao Thiên đồng
không thích nỗ lực phấn đấu, nên thường sau khi bận rộn, tự biết tìm ngay đến
phương thức hưởng thụ, đây chính là một chút khích lệ cho bản thân
mình.
Người có sao
Thiên đồng thủ mệnh, chủ về an phân thủ thường, sống bình dị dễ gần, bị động bảo
thủ, biết hài lòng với những gì đã có, an nhàn, yên ổn, tự tại là tâm tính ổn
định hơn người thường, khó tránh khỏi việc được nhiều mất nhiều, trốn tránh hiện
thực. Cũng vì vậy mà thiếu đi quyết tâm và khí phách phấn đấu sự nghiệp, hay
sáng tạo cục diện mới, vì vậy sao Thiên đồng hợp với nữ giới hơn là nam
giới.
Sao Thiên đồng
trong mệnh bàn có chức năng đặc thù, đó là vì thời gian bôn ba vất vả trên trần
thế càng nhiều, thì cơ hội an nhàn thoải mái càng ít, thường sao Thiên đồng kịp
thời xuất hiện để điều chỉnh. Vì vậy, bất luận cách cục của mệnh bàn như thế
nào, chỉ cần gặp sao Thiên đồng đều có thời gian nghỉ ngơi để nuôi dưỡng tinh
thần, nạp thêm năng lượng, chuẩn bị cho cuộc sống tiếp
sau.
Sao Thiên đồng
cũng có tính chất đào hoa, đào hoa của sao này thiên về hoạt động xã giao với
người khác giới, dễ lạc đề, tình cảm trọng về lý trí, tự suy tưởng hưởng thụ một
chiều. Vì vậy người có sao Thiên đồng thủ mệnh về mặt tinh thần và tình cảm
thường có cảm giác hư không, nên thích hướng ngoại tìm kiếm sự kích thích để duy
trì hạnh phúc đang có, nhưng cần kiềm chế nhiệt tình thái quá mà không đúng nơi
đúng chỗ, để tránh sinh ra những vướng mắc tình cảm lệch lạc, mệnh nữ thì càng
phải thận trọng.
Cơ hội mà sao
Thiên đồng độc tọa không nhiều, vì bất kỳ sao nào cũng đều có phúc không bằng
sao Thiên đồng, do đó mà sao đồng cung với sao Thiên đồng, hoặc ít hoặc nhiều
cũng đều có ảnh hưởng tới “phúc khí” của Thiên đồng, sự ảnh hưởng “phúc khí” đó
là:
– Thứ nhất: khiến cho mức
độ hưởng phúc của sao Thiên đồng giảm, hoặc giảm thời gian hưởng
phúc.
– Thứ hai: khiến cho con
đường hưởng phúc của sao Thiên đồng tương đối trắc
trở.
– Thứ ba: do có phúc khó
được hưởng, mà khiến cho đời sống tình cảm hôn nhân dễ gặp nhiều khó
khăn.
Sao Thiên đồng
Hóa Lộc thiên về thực lộc, ngược lại khiến người ta càng thêm lười nhác. Sao
Thiên đồng hóa Quyền, hóa Khoa thì không còn lười nhác, lại có tính lạc quan,
tích cực tiến thủ. Sao Thiên đồng hóa Kị chủ về lao động vất vả, khi Hóa Kị cũng
là người có chủ nghĩa lạc quan, nhưng thường điều hòa cuộc sống công việc hằng
ngày không hợp lý, nhiều sự việc trái với mong muốn, hoặc cơ năng thân thể thiếu
hài hòa.
Sao Thiên đồng là
một phúc tinh, không sợ sát tinh đồng cung hoặc hội chiếu. Có thể không cần đề
kháng, cũng có thể tự hóa giải được sự hung hãn của lục Sát tinh. Sát tinh không
chỉ không có tổn hại đối với sao Thiên đồng, mà ngược lại, còn thích Sát tinh
đến kích phát lực khai sáng của sao Thiên đồng, khiến cho Thiên đồng không bị
đình trệ trong sự “hưởng phúc“. Nhưng, cũng có thể trong sự bận rộn và
khai sáng, mà có lúc phải than rằng “có phúc mà không được hưởng“. Cần
phát triển thêm về mặt ngoại ngữ, hoặc văn nghệ, hoặc học để tăng thêm kỹ năng
trong cuộc sống mà tự khai mở nguồn vui mới.
Người có sao
Thiên đồng nhập mệnh, nếu không gặp Sát tinh, ngược lại, khiến cho Thiên đồng
vốn thích hưởng phúc sẽ chìm đắm trong sự an lạc mà không có sự vươn lên. Thiên
đồng thích gặp Tả phụ, Hữu bật, Thiên cơ, Thái âm, Thiên lương, càng chủ thọ
cao. Gặp Xương Khúc chủ về tài thiên phú văn học nghệ thuật. Nữ mệnh Thiên đồng
gặp Hữu bật, Thái âm, Văn xương, Vũ khúc, thì tình cảm thường nhiều phong
ba.
Người có sao
Thiên đồng thủ mệnh, chỉ cần thay đổi quan niệm và thói quen, tạm thời không đi
hưởng phúc, mà tích cực đối diện với cuộc sống thì vẫn có thể đạt được những
thành công như mong muốn.
Thiên đồng gặp Đà
la ở cung mệnh, thường chìm đắm trong hiện tại. Thiên đồng gặp Kình dương thân
thể dễ bị tổn thương. Thiên đồng thủ mệnh, gặp Kình Đà Hỏa Linh, và hóa Kị thì
chủ về khai đao, phá tướng, nếu không thì thường xuyên bị đau ốm.
thuyết ngũ hành thuộc dương thủy. Ở trên trời thuộc chòm sao Nam Đẩu, hóa làm
Phúc tinh, là chủ tinh của cung phúc đức trong mệnh bàn. Bẩm tính ôn hòa không
sợ tính hung của sao Kình dương, không lo sao Hóa Kị làm
loạn.
Cho nên, sao Thiên đồng đồng độ với sao Kình dương ở Ngọ địa thì gọi là cách
“Mã đầu đới tiễn” (Đeo tên ở đầu ngựa), chủ về vì quốc gia đem sức lực ra
phục vụ, nắm giữ binh phù đại quyền, là vị đại tướng lập công ở chiến
trường.
Sao Thiên đồng trấn thủ ở Tuất địa thì gọi là “Phản bối“. Nếu ở Thìn
địa thấy Hóa Kị, đồng thời còn gặp Lộc tồn hoặc Hóa Lộc ở tam phương hội chiếu,
thì lại là thượng cách, chủ về vừa phú vừa quý, đó là tượng “bĩ
cực thái lai“.