Lão, vì vậy mọi người đều không qua khỏi vòng càn khôn Sinh – Lão – Bênh – Tử.
Vẫn như phong tục cưới hỏi, hiện nay nhiều gia đình ít hiểu biết về những phong
tục tập quán trong tang ma. Chúng tôi xin có bài viết sau đây :
– Khi còn trẻ con, mọi người sống với gia đình
cùng ông bà cha mẹ, lúc thành niên bắt đầu xây dựng sự nghiệp, cưới vợ lấy
chồng rồi sinh con đẻ cháu, bỗng thoáng đó đã trở về già có khi vì lão hóa sinh
ra bệnh tật, và về lại lòng đất. Những chu kỳ ấy không bao giờ thay đổi. Có
chăng người đó được sống thọ đến bao nhiêu tuổi, chứ chưa ai được hưởng sự
trường sinh bất tử cả.
Vì thế trong phong tục Á đông nói chung và Việt
nói riêng, khi trong gia đình có người thân qua đời, ai cũng buồn thương nhớ,
dù người chết có sống đến trăm tuổi đi nữa.
Tuy vậy việc sửa soạn lễ tang theo phong tục
phương Đông tuy thấy đơn giản, nhưng lại có rất nhiều lễ tục diễn ra đa số còn
tồn tại đến ngày nay.
Sau đây là những tục lệ trong tang ma.
I. NGƯỜI MỚI QUA ĐỜI
A/- chia gia tài
Nhà nào có người lớn tuổi đang hấp hối, con cháu
phải mời gọi các con cái và nhất là cháu đích tôn đến bên nghe di chúc (những
nhà giàu có bây giờ, việc để lại di chúc đã được soạn trước đã có công chứng
làm bằng, đề phòng sau này nếu xảy ra tranh chấp, tòa án sẽ chiếu theo di chúc
phân xử).
Nếu người sắp chết không để lại di chúc chỉ nghe
qua truyền khẩu làm lời nói bất thành văn tự, sẽ tùy mọi người trong gia đình
bàn thảo, nếu có tranh chấp vụ việc sẽ đưa ra tòa án xử theo luật hôn nhân gia
đình quyền thừa kế mà phân chia tài sản. Con cái dù trong giá thú, hay ngoài
giá thú (nếu chứng minh được nguồn gốc huyết thống sẽ được chia đều). Trong các
phiên tòa xử các vụ án dân sự như trên, những người con ngoài giá thú tức không
có tên cha, đều không được luật pháp công nhận, nếu có tên cha nhưng người mẹ
không có hôn thú, người con vẫn được tòa án xử cho nhận một phần gia tài).
Nếu còn rắc rối hơn, ngày nay khoa học có phương
pháp tìm ra “gien” di truyền là tức ADN, hơn hẳn việc lấy máu thử như những năm
của thế kỷ XX trước đây.
B/- chuẩn bị tang lễ
Nếu người chết theo đạo Thiên chúa đã có tên
Thánh, còn người bên lương (không theo đạo, đạo thờ cha mẹ, hoặc thiên về Phật
giáo) gia đình sẽ mời các vị Thượng tọa, Đại đức đến đặt cho một pháp danh (nếu
chưa quy y tam bảo).
Tuy nhiên có một số người không xin pháp danh
hay tên Thánh, vì họ không theo đạo nào, như trong xã hội chúng ta còn rất
nhiều gia đình chỉ biết thờ cúng ông bà là chính.
Người nhà người hấp hối, chuẩn bị nước ấm, trầm
hương lau người sạch sẽ, thay đổi áo quần cho người sắp chết cho tươm tất.
Khi tắt thở, liền lấy chiếc đũa để ngang hàm, bỏ
một nắm gạo và ba đồng tiền vào miệng (nhà có tiền sẽ bỏ vào ít vàng, cỡ vài
phân, vài ly) gọi là ngậm hàm, ý nói người chết khi xuống địa ngục khi đi qua
18 cửa ngục âm ty, nếu có tiền có vàng sẽ dễ ăn nói (các người xưa có câu trần
sao âm vậy).
Con trai trưởng và cháu đích tôn là những người
đầu tiên đến vuốt mắt cho người chết, dù người chết đã khép mắt.
Xong mới đưa xác người chết nằm dưới đất ít
phút, có nghĩa “người ta sinh ra bởi đất thì khi chết lại trở về với đất”, rồi
mới đặt ngay ngắn lên giường chờ giờ tẩn liệm vào áo quan. Trên đầu người chết
để một cây đèn dầu, trên người để một nải chuối xanh, một con dao lớn (phòng
khi xác chết thành Quỷ nhập tràng. Khi xưa người ta cho rằng, xác để nằm như
thế, nếu có con mèo mun đen nhảy qua, người chết sẽ ngồi bật dậy, hay đứng cả
người thành quỷ rượt theo người sống, để con dao như thế cho ma quỷ đừng đến
quấy phá. Nhưng thật ra, để con dao trên xác người chết, theo khoa học chỉ nhằm
cho khí âm còn tích tụ trong xác chết được tiêu tan; ngày nay ngoài việc để
dao, người ta còn đốt than để dưới gầm giường là vậy). Đắp mặt bằng một cái
khăn (trước đây, người con trai trưởng sẽ cầm cái áo người chết thường mặc trèo
lên mái nhà hú vía ba tiếng, có ý mong cho người chết sống lại, rồi cũng chiếc
áo đó phủ lên mặt xác chết).
Xong phần này, trong gia đình mới phân công mỗi
người lo liệu mỗi việc, người đến chùa thỉnh thầy đến tụng niệm, xem ngày giờ
chết, giờ tẩn liệm, ngày giờ động quan, hạ huyệt. Người lo áo quan xe đòn, đội
kèn trống tây ta, xe đưa rước thân bằng quyến thuộc hàng xóm đến nơi an nghỉ
cuối cùng. Người lo chỗ chôn cất (nếu tin phong thủy, đi tìm thầy địa lý xem
lại hướng đất thế đất v.v..), người lo liệu xin giấy khai tử, người lo sắp đặt
trong nhà đón khách đến phúng viếng chia buồn v.v….
Đây là những thủ tục mà bất cứ gia đình nào lo
ma chay nào cũng phải thực hiện, và tùy theo hoàn cảnh gia đình mà lo liệu.
Hiện nay nhiều lễ tang thực hành tiết kiệm, tránh khoa trương và không kéo dài
tang lễ nhiều ngày. Trước để tránh phiền hà hàng xóm, mặc dù nhà có ma chay
không ai chấp nê, nhưng để xác lâu ngày sẽ đâm thối rửa, lây lan bệnh truyền
nhiễm; sau là kèn trống inh ỏi sẽ làm hàng xóm mất ngủ, cũng là sự tế nhị trong
một cộng đồng dân cư.
C/- Tẩm liệm nhập quan
Nhà có tiền dùng nhiều vải vóc lụa là, nhà bình
thường chỉ dùng vải thô trắng (vải tám, calicot, katé) may làm đại liệm, tiểu
liệm (đại liệm là một mảnh dọc, năm mảnh ngang – Tiểu liệm một mảnh dọc, ba
mảnh ngang), dùng tẩn liệm khi xác nhập quan, gia đình bỏ vào trong áo quan
(quan tài).
Khi xưa người Việt thường thấy các thầy cúng hay
thầy pháp bỏ vào trong áo quan một mảnh ván có đục hình bảy ngôi sao tức “Bắc
đẩu thất tinh”. Trước khi nhập quan, xác chết được nhà đòn (trại hòm) mặc thêm
một chiếc áo (tùy theo tuổi vừa chết : hưởng dương hay hưởng thọ, hưởng dương
là dưới tuổi 60 áo màu xanh, còn hưởng thọ trên 60 áo màu đỏ, người có chân tu,
như tu tại gia, người cách ly gia đình đi tu mặc áo màu vàng. Đây là tục cho lũ
quỷ sứ dưới âm phủ biết tuổi người chết).
Trước khi nhập quan, phải chọn giờ tránh tuổi
cho người sống, rồi dùng bùa nọ bùa kia dán ở trong hoặc ngoài áo quan, người
ta tin rằng có người chết vào giờ trùng nhật, trùng tháng, trùng năm. Có người
chết không hợp tuổi nên con cái sẽ khó làm ăn phát huy nghề nghiệp v.v.. có địa
phương không dán bùa mà lại bỏ trong áo quan những cổ bài, hay quyển lịch –
thời phong kiến, người ta đi tìm những cuốn lịch có dấu ấn, tức lịch được công
nhận (ngày nay là lịch được dán tem chăng ?!) – hoặc tàu lá gồi để yểm người
chết không cho trở về nhà quậy phá người sống, hoặc trấn áp ma quỷ theo cách mê
tín như đã trình bày.
Khi tẩn liệm nhập quan, những người con hay bà
con gần xa khắc tuổi người chết, sẽ được khuyên không nên xuất hiện cho đến khi
nắp quan được khép kín. Nắp quan phải được đóng đinh và niêm kỹ bằng chất keo
tốt cho xác chết dù có thối rửa cũng không tràn nước ra ngoài, sau đó áo quan
được đặt chính giữa nhà.
D/- thành phục
Tẩn liệm xong. Thầy cúng hoặc các sa di đến đọc
kinh kệ cho người chết, và bắt đầu làm lễ thành phục.
Bàn thờ bày trước linh cửu gọi là linh tọa
(trước đây còn có tục đặt hồn bạch, là lấy khúc vải lụa đắp vào người chết trước
khi tẩn liệm, khi nhập quan, lấy lại kết thành hình nhân, nay đã thay bằng hình
ảnh của người chết), thầy cúng sẽ kêu tên những người chịu tang từ lớn xuống
nhỏ mà phát tang phục. Lúc này, ai muốn khóc mới được khóc (ở thôn quê, nếu nhà
neo đơn ít người, các phú hộ còn mướn người đến khóc thuê)
Tang phục chia ra nhiều loại :
– Con trai, con gái, con dâu, cháu đích tôn mặc
áo đội khăn, chống gậy. Con gái xỏa tóc, con trai không được cạo râu trong
những ngày còn để áo quan trong nhà, chứng tỏ nổi bi thương, có nơi còn không
cho tắm rửa !?
– Con rể, hay họ hàng gần chỉ chít khăn trắng
trên đầu.
– Cháu nội, khăn có chấm đỏ.
– Cháu ngoại, khăn trắng có chấm vàng.
– Còn các chắt, chít lại quấn khăn màu vàng.
E/- nghi thức tang gia
Sau lễ thành phục, đến cúng cơm cho người chết.
Lễ này được gọi “Chiêu tịch diện”, ám chỉ hàng ngày phải có 3 buổi cúng cơm,
vào buổi sáng, buổi trưa và buổi chiều. Trước đây vào buổi sáng, con cái phải
bưng chậu nước, khăn mặt, bàn chải răng, thức ăn điểm tâm từ giường người chết
thường nằm ra đến chỗ linh tọa, khi đi phải khóc to, tới nơi dâng lên linh tọa
mà cúng. Buổi chiều sau buổi cúng cơm mới đem vào. Tục này hiện nay không còn,
vì thấy quá cầu kỳ, và tại linh tọa lại thấy không được trang nghiêm cho lắm.
Trong cúng cơm, các người con trai có thể thay
nhau, dâng trà, rượu, cơm thịt trước linh tọa, có khi là cháu đích tôn (thông
thường là cơm chay).
Trong nhà đám, như chúng tôi trình bày, nhiều
gia đình thường mời đội kèn đến đánh trống, thổi sáo, kéo đàn gọi là “Đội kèn
giải”, khi có người đến phúng viếng chia buồn, sẽ nổi nhạc ò í e, có người cho
tiền nhờ họ khóc mướn, đội kèn giải sẽ vừa trống kèn, vừa ngân nga đọc kể lể
theo tâm sự người đã thuê giải bày, giọng kể lể cũng mang vần điệu lúc lên bổng
xuống trầm thể hiện sự thê lương nghe thật nảo lòng, ai nghe cũng rưng rưng xúc
động. Nhà đám nào không có đội kèn giải, xem như hiu quạnh lắm.
Những họ hàng người miền Bắc xưa và nay, có hội
tương tế, hội đồng hương (gọi là người trong họ, trong làng), nếu người chết
hưởng thọ, bên hội sẽ cử từ 10 người có tuổi cao trở lên đến tế lễ chia buồn.
Họ mặc trang phục trang trọng, áo dài khăn đóng màu trắng, phường nhạc nổi
trống kèn như đang diễn một vở tuồng Tàu. Lễ tế ở đây có nghĩa, người trong họ
hay trong làng, dâng rượu, trà, bánh, hoa quả lên linh tọa (như lúc cúng cơm),
và đọc điếu văn chia buồn với người chết cùng tang gia, đọc xong mới đốt đi như
gửi thư cho người chết vậy.
Ở miền Nam có học trò lễ, chỉ mang sắc thái văn
hóa, vì tang gia mời đến làm lễ tế, chứ những học trò lễ thường không có họ
hàng, đôi khi còn không phải người làng hàng xóm với người chết. Có học trò lễ
đến tế, ai cũng biết nhà đó thuộc loại có dư giả tiền bạc, muốn thực hiện một
ma chay trang trọng.
Việc khách khứa, họ hàng gần xa, hàng xóm láng
giềng, bạn bè thân hữu đến phúng viếng chia buồn, tùy theo khách mà các con
trai con gái phải ở hai bên áo quan lạy tạ, khách lạy ba lạy phải đáp một lạy,
khách lạy bốn lạy thì đáp hai lạy, khách của người nào người đó lạy tạ, nếu ít
tuổi hơn kêu con cháu ra tạ lại. Thông thường có tục nếu khách đưa ma thì lạy
ba lạy, còn không đưa ma thì lạy bốn lạy, trước quan tài người chết.
F/- động quan, di quan
Trước ngày động quan, di quan nhiều gia đình tổ
chức đêm không ngủ, các con cái, dâu rễ tề tựu bên áo quan suốt đêm, có ý nghĩa
tưởng nhớ người chết, phường nhạc bát âm kèn giải cũng đôi khi ở lại khóc mướn
cho tang gia.
Ngày xưa trong đêm không ngủ, tang gia còn làm
lễ chuyển cửu, tức xoay quan tài một vòng, nếu nhà chật hẹp thì người ta rước
hồn bạch (nay là di ảnh) đi quanh nhà, cốt ý cho hồn ma không nhớ đường về nhà
nữa.
Ngày động quan, di quan còn gọi “ngày phát dẫn”.
Cha mất, con trai chống gậy tre, mẹ mất chống gậy vông, nếu con trưởng không có
nhà thì cháu đích tôn, nếu cả hai không có mới đến con trai thứ. Con trai con
gái không có mặt trong những ngày tang gia, áo mủ khăn tang được xếp lên nóc áo
quan.
Trong ngày di quan, nhà đòn rất quan trọng, bởi
họ là vai chính trong lễ động quan, di quan, nên tang gia rất coi trọng họ. Cho
nên trước khi động quan, tang gia phải có những tờ bạc lớn dằn dưới ly rượu
đầy, trước nóc áo quan nhằm tưởng thưởng cho các đạo tỳ khi khiêng quan tài mà
không bị đổ rượu, ý muốn để người chết không bị động mà ra đi suôn sẻ. Vùng Nam
Bộ nhiều nhà đòn còn tô chức “hát đưa linh”, một nét văn hóa khá độc đáo.
Hát đưa linh tức lúc động quan, di quan, gồm một
nhân quan chỉ đạo, và từ 8 đến 10 đạo tỳ (người khiêng áo quan), họ vừa thắp
nhang trước linh cửu người chết xong, nhân quan cùng đạo tỳ liền múa may theo
điệu hát bộ, và hát hò bằng câu chuyện “chàng Lia cướp quan tài”. Vừa hát vừa
động quan rồi đến di quan.
Trên đường đi các đạo tỳ vẫn theo sự chủ đạo của
nhân quan, vừa uyển chuyển nhịp nhàng vừa linh động khiêng áo quan theo nhịp
của bài ca, bên cạnh là tiếng trống kèn của đội kèn giải đánh theo bài hát,
nghe rất tưng bừng (nhưng đây là cách làm các đạo tỳ đang khiêng áo quan, quên
đi nổi mệt nhọc).
Thông thường khi di quan, nhà đòn phải có 2 thần
tướng làm bằng giấy, hình dung dữ tợn dẫn đường (nhiều người cho là hình tượng
của ác thần và thiện thần), thứ đến là thể kỳ có 2 người khiêng, một bức hoành
vải trắng đề 4 chữ (như cha mất là câu “Hổ sơn vân ám”, mẹ mất thì ghi “Di lĩnh
vận mê” v.v..), và 2 bên treo lồng đèn, ghi tước hiệu và tước danh người chết.
Thứ ba trong việc đưa đám là tấm minh tinh. Tấm
minh tinh làm bằng vải đỏ có ghi chức tước, họ tên người chết treo vào một cành
tre, hoặc tháp trụ để vào bàn cho mấy người khiêng. Bên dưới tấm minh tinh có 4
chữ Qui, Khốc, Linh, Thinh. Đi sau là các thầy cúng hay nhà sư theo tụng niệm.
Sau tấm minh tinh, nhà đòn còn có bàn hương trên
để lư nhang, hai bên cắm đèn cầy, độc bình cắm hoa vạn thọ, và mâm trái ngũ
quả, kế đến là thực án bày tam sên hay heo quay bánh trái. Đi trước bàn hương
là các con trai người mang di ảnh, người cầm chén cơm chống gậy đi giật lùi đến
khi áo quan đưa lên linh xa. Theo sau bàn hương là đội kèn tây, kèn ta.
Rồi đến linh xa (xe đòn) trên để hồn bạch (hay
di ảnh); và tang gia nối bước theo sau, kế đến thân bằng quyến thuộc, thân hữu
của tang gia đi đưa tiễn.
Trước khi động quan, nhà đám phải cúng tam sên ở
giữa đường đi, như ý xin đường còn tang gia cúng thổ thần như bẩm báo người
chết tên gì, tuổi gì không còn ở trong ngôi nhà này nữa (ý như xóa tên ra khỏi
hộ khẩu, nếu thành ma trở về nhà thì các thổ thần sẽ không cho vào nhà).
Khi động quan, nhóm đạo tỳ có người đại diện
thắp nhang và đèn khấn bái trước quan tài, các đạo tỳ khác phải quỳ lạy cung
kính theo lệnh của đại diện, khấn bái xong mới động quan (xem phần hát “đưa
linh” ở trên).
Khi quan tài được khiêng ra khỏi cửa, trong nhà
phải đập bể một vài món đồ dùng (như nồi niêu v.v… làm bằng đất) để tạo ra
tiếng nổ lớn, cho tà ma sợ mà đi ra hết khỏi nhà.
Các cô con gái báo hiếu cha mẹ thì nằm lăn
đường, tức nằm ngang đường mà lăn vài ba mươi thước, các đạo tỳ khi khiêng áo
quan, sẽ bước qua người.
Khi đi đường đến nghĩa trang, tang gia rải giấy
tiền vàng bạc, nhằm hối lộ cho đám tà ma quỷ dữ, kẻo quan tài nặng nề khó đi.
Đó là những bước của di quan và động quan.
G/- hạ huyệt
Khi nhà đòn đưa quan tài đến nghĩa trang, ở đây
nếu có nhà trạm thì đưa áo quan vào, cho bên tang gia quỳ lễ cám ơn, hoặc có
phần đọc điếu văn và đáp tạ cũng được diễn tiến tại đây.
Lúc đến giờ tốt, tang gia lại có mâm cúng thổ
thần tại nghĩa trang, nếu có thầy địa lý phong thủy sẽ có mặt tại huyệt nhằm
phân kim gióng hướng cho đúng, khi đến giờ mới cho đạo tỳ hạ quan.
Khi áo quan đã định vị đúng hướng là phần lấp
huyệt. Tang gia và họ hàng, những người đi tống tang (người quen đi đưa tiễn)
sẽ đi quanh huyệt mà ném từng hòn đất xuống lòng huyệt. Khi hạ huyệt xong,
người con trai trưởng sẽ quỳ lạy những người đưa tiễn 4 lạy, có nghĩa cảm tạ
người đến tiễn vong linh và bắt đầu lấy đạo thờ người chết để tang.
Trong quá trình đưa ma, con cái lúc nào cũng
phải khóc than.
H/- ngu tế
An táng xong, cả tang gia trở về nhà lại tế,
người xưa gọi là “Ngu tế” (ngày chôn là sơ ngu, ngày thứ hai là tái ngu, và
ngày thứ ba là tam ngu). Ngu có nghĩa là yên. Vì người chết hồn phách chưa yên
nghỉ nơi nào, cho nên tế 3 lần để hồn phách người chết được yên ổn. Nay tục này
cũng ít thấy gia đình nào còn thực hiện.
II. SAU KHI CHẾT
A/- MỞ CỬA MẢ
Trong ba ngày sau khi mới chôn, gia đình tang
gia trở ra mộ làm lễ mở cửa mả, thường thì trong nhà làm lấy, người giàu mời
thêm thầy cúng đến dùng con gà trắng hay con chó đen, để cúng thổ thần (ngày
trước họ giết gà chó ngay tại đấy, lấy máu mà tưới lên quanh ngôi mộ, nay chỉ
còn thả cho gà, chó tự chạy như để phóng thích, phóng sinh. Các thầy cúng dùng
lươn, cá chép, ốc (tam sên), một cây mía lao cùng nhiều loại giấy tiền vàng bạc
để cúng và yểm bùa, cho rằng làm như thế thì trừ được hung thần không cho quậy
phá hồn người chết, sau để hồn về nơi thờ cúng trong nhà.
Sau khi làm lễ mở cửa mả xong, các con cái bắt
đầu dọn mộ hay xây mộ cho thân nhân (trong 49 ngày đầu, tức còn trong lễ thất
tuần) tang gia có thể xây mộ mà không cần xem ngày giờ tốt xấu.
B/- CÚNG THẤT TUẦN & CHUNG THẤT
Theo phong tục khi người chết đã chôn cất xong,
gia đình phải làm lễ thất tuần (tức làm tuần, trong 7 tuần lễ liền), tính ngày
người chết mới tắt thở.
Các con cái chịu tang phải về đầy đủ, mặc lại
tang phục và cúng cơm cho người chết, thầy cúng hoặc nhà sư đến tụng niệm
(trước đây, có tục người nào lo việc hương hỏa trong gia tộc, hàng ngày phải
dâng cơm ngày hai buổi và phải khóc lóc thảm thiết, van xin hồn người chết về
dùng cơm).
Cơm cúng cho người chết (mỗi khi cúng cơm) đều
là những món chay, nhằm cho người chết được nhẹ nhàng hồn vía, sớm siêu thăng
miền cực lạc, có người cho rằng cúng chay là để hồn người chết sớm quy y cửa
Phật, nương nhờ cửa Phật mà không về với gia đình (vì gia đình thường ăn mặn,
không hợp lẽ tu hành).
Khi cúng đủ 6 tuần, đến tuần thứ 7 gọi là lễ
chung thất. Thường lễ chung thất(49 ngày) và lễ tốt khốc 100 ngày, các gia đình
tổ chức rất lớn, có mời họ hàng, xóm giềng đến dự.
Trước là cho một số con cái cháu chắt xả tang,
vì cho rằng trong 49 ngày qua, hồn người chết đã yên ổn ở các nơi (có ý cho là
người chết có 3 hồn, một ở nơi thờ cúng, một ở nơi chôn cất và một ở dưới tuyền
đài chờ Diêm vương phán quyết), khi xả tang có thầy cúng hay nhà sư đến làm
phép cho người đó.
Sau là gia đình tang gia cảm tạ các khách mời
trong thời gian họ đến tống tang, bằng một bửa cơm thịnh soạn.
C/- TỐT KHỐC
Một trăm ngày là tuần tốt khốc, nghĩa là đến
ngày này mới thôi khóc. Gia đình cũng mời họ hàng làng xóm đến chứng kiến, cũng
có thủ tục xả tang như lễ chung thất. Và phá bỏ bàn vong (linh tọa), di ảnh
được đưa lên bàn thờ nhưng không được cắm chung một bát nhang cùng với tổ tiên
D/- TIỂU TƯỜNG
Tròn một năm của người chết, gọi là ngày giỗ đầu
hay lễ tiểu tường. Bấy giờ con cháu chịu tang (chưa xả tang) được bỏ tang phục,
gậy mũ v.v… các lễ tục vẫn giống như khi làm lễ chung thất và lễ tốt khốc.
E/- ĐẠI TƯỜNG & ĐÀM TẾ
Sau hai năm giỗ tất gọi là đại tường, nếu tính
theo năm âm lịch là để tang đã đủ ba năm. Tuy nhiên ngày đại tường này cũng
chưa phải đã hết tang chế cho tang gia, mà sau đó còn một lễ khác có tên gọi lễ
đàm tế.
Lễ này còn được gọi là lễ trừ phục sau 60 ngày
(nhưng không nhất thiết phải đúng 2 tháng sau lễ đại tường, có gia đình chọn
được ngày tốt, để tổ chức lễ đàm tế) Trong ngày lễ tất cả những gì còn gợi lại
tang ma đều được đốt bỏ, mọi người được xả tang và thôi đau buồn nữa.
Trong những lễ tục tang ma nói trên, những gia
đình khá giả trong những ngày lễ tiểu tường, đại tường họ thường đốt vàng mả,
nào là nhà, xe, áo mão, rương hòm… có người dâng hình nhân làm người hầu hạ
v.v… cho người chết.
Nhiều gia đình, sau khi làm lễ chung thất hay
tốt khốc, họ xin dẫn vong linh về chùa để tu cho sớm được siêu thăng tịnh độ,
nên những lễ tốt khốc, tiểu tường, đại tường, đàm tế đều tổ chức ở chùa, đốt
vàng mả cũng tại đó. Còn đãi ăn thì tùy gia đình tang gia, mời ăn chay hoặc mặn
mà chọn địa điểm.
oOo
Với các lễ tục tang ma như thế, và với những hủ
tục mê tín trong ma chay, chúng ta thấy quá nhiều rườm rà và bi thiết. Ở các
nước có nền văn minh tiên tiến, họ không quàng xác tại nhà quá 48 giờ, và không
có cảnh đưa ma nào là hình tượng phước thần, ác thần, thể kỳ, minh tinh, bàn
hương rồi các đội kèn giải, kèn tây đi dài mấy trăm mét, đó là chưa kể đến sự
phô trương với nào là người hoặc xe thô sơ chở từng vòng hoa tươi hay vòng cườm
của người đưa phúng viếng, kéo thành hàng dài lê thê.
Hiện nay cũng đã ít thấy xuất hiện người khóc
mướn, có họ bạn sẽ thấy một tang gia quá hiếu đạo với người đã chết, họ lăn
đường khóc than thảm thiết lắm, nhưng chính những người đang chịu tang có lòng
hiếu đạo thật không, báo hiếu thật không, không ai biết được.
Trong một gia đình còn nhiều mê tín, người ta có
tục đi tìm đất để chôn, đất phải kết phát tài lộc mới gọi là đắc địa, rồi xem
ngày chọn giờ mới động quan, di quan có khi quàng xác tại nhà đến năm bảy ngày,
hàng xóm láng giềng phiền lòng mà người trong cuộc cũng mệt mỏi và tốn kém.
Chúng ta thấy cần bỏ bớt những lễ tục không đáng
phải phô trương, cho người chết được yên ổn mà về với cát bụi.
F/- CẢI TÁNG
Thông thường muốn cải táng một mộ huyệt, ít nhất
cũng sau ba năm kể từ ngày chôn cất, bởi khi ấy mùi tử khí cũng không còn ảnh
hưởng những người đang quanh đó, và cũng hợp với đạo lý trong xã hội, trong đời
sống, tập quán của người dân Việt.
Ngày xưa rất ít người chịu cải táng lại các mộ
phần của ông bà cha mẹ, vì sợ động long mạch, phần còn lại có những lý do để
cải táng :
– Khi cha mẹ mất, nhà nghèo nên không có tiền lo
liệu mua những cổ quan tài tốt, nên đợi ba năm cho cải táng lại, kẻo áo quan cũ
xấu hư nát có hại đến di hài.
– Hai là nơi chôn cất có mối kiến, sụp lỡ vì
nước ngầm.
– Ba là vì các thầy phong thủy xem lại, thấy
phần mộ bị sụp đất, hoặc cây cối trồng trên mộ tự nhiên bị khô héo.
– Còn một lý do, theo mê tín dị đoan, trong nhà
có kẻ dâm loạn điên khùng, hoặc bị đau ốm liên miên, bị thị phi, kiện tụng thì
cho là đất táng bị động không tốt.
– Lý do thứ tư là những người cầu mong có đường
công danh phú quý, nhờ thầy địa lý phong thủy tìm nơi cát địa mà cải táng các
mộ người thân. Hay có người ganh tỵ, khi thấy nhà nọ làm ăn khấm khá, liền cho
cải táng thân nhân về gần nơi có mộ phần ông bà cha mẹ người đó, để cầu được
hưởng dư huệ.
Ngày nay việc cải táng còn nhiều nguyên nhân
khách quan khác, như chuyển nghĩa trang ra khỏi thành phố, khu đất được quy
hoạch trở thành khu dân cư …
Về mặt chủ quan khi cải táng gặp những điều sau
đây thì không nên cải táng nữa :
– Khi đào huyệt mộ thấy có con rắn vàng đang
sinh sống, cho là điềm cát tường (Long xà khí vật). Hai là khi mở quan tài thấy
có dây tơ hồng quấn quít, thì cho rằng đất kết. Ba là hơi đất chỗ quan tài ấm
áp, không có nước, khô ráo hoặc có nước đọng như màu sửa là tốt. Khi gặp những
điều trên đây phải đắp lại ngay.
Trước khi cải táng, gia đình người chết phải tổ
chức tại nơi thờ phụng một lễ cáo đường. Đến khi động đất cải táng, thêm một lễ
báo với thổ thần, thổ địa xin cho được cải táng. Khi thực hiện phần việc gom
hài cốt, nhặt lấy xương xếp vào tiểu sành, rẩy nước hoa, lúc hoàn tất phải hàn
nắp tiểu sành cho thật kín, không cho ánh sáng lọt vào. Sử dụng tiểu sành có ý
đưa hài cốt đi gửi ở chùa, hay đem về nhờ thờ tự, còn đưa đi chôn ở huyệt khác,
thì dùng quan quách loại nhỏ, gắn hài cốt như hình người và tẩn liệm thật kỹ
như lúc họ vừa mới chết vậy.
Áo quan cũ dù còn tốt nhưng không dùng phải bỏ
đi. Một số người ở nông thôn thường đem về làm chuồng heo, bò, trâu, ngựa để
các con vật nuôi không bị sâu chân. Một số người khác do mê tín, lấy những mảnh
áo quan dùng làm bàn cơ bói toán, hoặc ai đau tức thì lấy nó đốt lên, hay để
dưới gầm giường cho hơi bốc lên, cho cơn đau tức được thuyên giảm.
KỴ NHẬT
Khi ông bà cha mẹ chết đi, ngoài con trai
trưởng, hay dòng tộc trưởng thờ cúng (tổ tiên), hàng năm cứ đến ngày mất mà làm
lễ giỗ, gọi là kỵ nhật.
Theo phong tục, trước ngày giỗ kỵ vào buổi chiều
người nhà soạn mâm cúng đơn giản, gọi là bửa tiên thường, hôm giỗ gọi là chính
kỵ. Lễ tiên thường là thủ tục gửi lời mời đến người chết hôm sau về nhà nhận lễ
cúng kỵ.
Trong ngày chính kỵ, nếu giỗ xa (cụ kỵ ông bà)
chỉ mâm xôi, gà luộc, rồi giò chả là đủ; còn giỗ gần (cha mẹ) cũng bằng thứ ấy
thêm vài món canh, món xào, món chiên, món kho… Trên bàn thờ có mâm cơm chay, và
dù giỗ xa giỗ gần, làm lớn hay nhỏ, nhất nhất phải có chén cơm úp đôi, bên trên
để quả trứng gà luộc.
Những gia đình nghèo cũng chỉ cần lưng cơm quả
trứng, dâng lên bàn thờ cũng đã chứng tỏ được lòng thành tưởng nhớ đến ngày mất
của cha mẹ rồi. Những nhà khá giả lấy ngày kỵ nhật này tổ chức đám tiệc đông
đảo, ngoài bà con họ hàng, anh chị em, con cháu, lại mời hàng xóm, thân hữu đến
dự. Tuy những đám tiệc như thế cũng không vượt ngoài sự tưởng niệm, báo hiếu
người đã mất, nhưng xét về ý niệm ngày giỗ kỵ lại sai đi.
Ngày giỗ kỵ là một ngày chung thân chi tang, là
ngày thương nhớ, tưởng niệm người đã mất, có nên tổ chức thành đám to đám nhỏ
ăn uống no say, cười đùa cả buổi ?!
Ở Âu – Mỹ người ta kỷ niệm những ngày giỗ kỵ như
thế, bằng hình thức rất giản đơn, nếu có mộ phần, họ đem hoa ra mộ mà cắm, rồi
xin một lễ ở nhà thờ hay chùa chiền, xin cầu siêu cho người chết sớm siêu
thoát. Ở Á đông, người Nhật, người Hàn Quốc cũng có ảnh hưởng nhiều bởi phong
tục tập quán từ người Trung Quốc, nhưng họ cũng chỉ một bó hoa ra mộ, rồi xin
cầu siêu ở chùa chiền như người phương tây mà thôi.
III. ĐÁM CƯỚI CHẠY TANG
Khi gia đình đôi nam nữ đã xem ngày chọn giờ tổ
chức ngày cưới, bỗng tứ thân phụ mẫu nhà trai hay nhà gái xảy ra tang chế, nhất
là bên nhà trai chú rể phải chịu đại tang đúng ba năm, còn xảy ra bên nhà gái
cô dâu cũng chịu tang cơ niên một năm.
Có nơi không thể chờ ngày mãn tang, với những lý
do chủ quan nhiều hơn là khách quan, cũng như ngoài đời thường có câu “cưới vợ
nên cưới liền tay, chớ để lâu ngày có kẻ dèm pha”.
Vì không thể chờ đến ba năm hay một năm tang
chế, nhiều gia đình cho làm đám cưới chạy tang. Người xưa gọi đó là “Ưu hỉ
trùng phùng” (vui buồn cùng lúc).
Theo phong tục, nếu có người chết trong nhà là
ông bà cha mẹ, muốn có đám cưới chạy tang thì chưa cho may thành phục (áo
tang), chưa liệm thì chưa ai khóc, hàng xóm có biết nhưng chưa thấy nhập quan
chưa ai đến viếng.
Nhà trai hay nhà gái liền mang mâm lễ qua nhà
nhau xin ý kiến, nếu được chấp thuận đám cưới sẽ được tiến hành ngay trong ngày
hay ngày hôm sau, không cần xem ngày chỉ cần giờ hoàng đạo là được; còn nếu
không được chấp nhận thì đành chờ mãn tang hay sau ngày xin xả tang (chỉ có con
trai thứ xin xả tang trước ba năm, còn con trai trưởng phải đủ ba năm sau lễ
đàm tế).
Lễ cưới cũng có đưa rước dâu, cúng gia tiên hai
họ và nhập phòng lấy ngày, lễ vật cũng đơn giản cho đủ hình thức nhưng không
thiếu trầu cau và trà rượu. Không đình đám, họ hàng hai bên cũng hạn chế số
người dự, thường là trong phạm vi gia đình hai họ và các chú bác cô dì, cùng
vài bạn bè thân nhất.
Khi đám cưới hoàn tất xong các nghi lễ, gia đình
mới bắt đầu may thành phục và lo chuyện nhập quan cho người chết. Cô dâu chú rể
lúc này đã là thành viên trong gia đình, chịu tang như mọi đám tang khác, là
nhà trai chịu tang chú rể không được quan hệ xác thịt trước ngày tốt khốc (100
ngày), còn nhà gái chịu tang chỉ sau ngày mở cửa mả hay sau lễ chung thất (49
ngày).
Thông thường khi trong gia đình có ông bà cha mẹ
đau bệnh đang chờ chết khó qua khỏi ngày lễ cưới đã định, việc tổ chức đám cưới
chạy tang có phần đình đám như những đám cưới khác, chỉ cần xem lại ngày gần
nhất để tổ chức.
Lễ tang
Trong phần này, chúng tôi xin giới thiệu văn
khấn ở những nghi lễ quan trọng từ khi người mất tới khi được 100 ngày.
Phần văn khấn từ giỗ đầu (tròn một năm sau ngày
mất) chúng tôi chuyển sang phần văn khấn khi cúng giỗ.
1) Văn khấn lễ Thiết Linh:
Lễ Thiết Linh là lễ sau khi lập xong bàn thờ
tang, đặt linh vị
2) Văn khấn lễ Thành Phục:
Lễ Thành Phục là lễ sau khi gia đình thân nhân
mặc đồ tang, tề tựu quanh linh cữu.
3) Văn khấn lễ Chúc Thực:
Lễ Chúc Thực là lễ dâng cơm khi còn để linh cữu
ở nhà.
4) Văn khấn Lễ cáo Long Thần Thổ Địa:
Là lễ cúng Long Thần Thổ Địa trước khi đào
huyệt.
5) Văn khấn lễ Thành Phần:
Lễ Thành Phần là lễ khi đắp xong mộ.
6) Lễ Hồi Linh:
Lễ Hồi Linh là lễ rước ảnh hoặc linh vị từ mộ
về.
7) Vản khấn lễ Chầu Tổ (Triều Tổ lễ cáo):
Sau khi làm lễ Hồi Linh ở bàn thờ tang xong thì
làm lễ cáo yết với Tổ Tiên ở bàn thờ chính, nếu là gia đình nhà con thứ thì yết
cáo tại nhà thờ của chi họ, nơi thờ ông bà nội hoặc cụ nội.
8) Lễ Tế Ngu:
Lễ Tế Ngu là lễ ba ngày sau khi mất hoặc ba ngày
sau khi chôn cất xong.
Theo tục xưa:
Ngày đầu là Sơ
Ngu
Ngày thứ hai là Tái Ngu.
Ngày thứ ba là Tam
Ngu.
9) Lễ Chung Thất và Tốt Khốc:
Lễ Chung Thất là lễ 49 ngày. Lễ Tốt Khốc là lễ
100 ngày.
10) Lễ Triệu tịch Điện văn:
Lễ Triệu tịch Điện văn là lễ cúng cơm trong 100
ngày.
11) Lễ Tiểu Tường, Đại Tường (Giỗ Đầu, Giỗ
thứ Hai):
Giỗ Đầu và Giỗ thứ Hai là hai lễ giỗ rất quan
trọng.
12) Văn khấn lễ Đàm Tế (Tức là lễ hết tang
Trừ phục):
Sau 2 năm và 3 tháng dư ai, chọn một ngày tốt
làm lễ: Đắp sửa mộ dài thành mộ tròn, cất khăn tang, huỷ đốt các thứ thuộc phần
lễ tang, rước linh vị vào bàn thờ chính, bỏ bàn thờ tang.
13) Văn khấn lễ rước linh vị vào chính điện
và yết cáo Tiên Tổ:
Cách tiến hành nghi lễ: chép sẵn linh vị mới phủ
giấy (hoặc vải) đỏ, khi Đàm Tế ở bàn thờ tang xong, thì đốt linh vị cũ cùng với
bảng đen phủ quanh khung ảnh và văn tế. Sau đó rước linh vị, bát hương và chân
dung (nếu có) đưa lên bàn thờ chính, đặt ở hàng dưới. Trường hợp nhà không có
bàn thờ chính thờ gia tiên bậc cao hơn thì không phải làm lễ này mà yết cáo gia
thần và yết cáo Tổ ở nhà thờ tổ.
14) Lễ Cải Cát:
Lễ Cải Cát là lễ sang Tiểu, sửa mộ, dời mộ.
– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư
Phật,
– Con kính lạy Quan đương xứ Thổ địa chính thần
– Con kính lạy đức Thành hoàng bản cảnh
– Con kính lạy Thổ Công, Thổ địa, Thổ kỳ bản gia
– Con kính lạy Hội đồng gia tiên dòng họ ………….
Hôm nay là ngày…… tháng…… năm …………………… Con trai
trưởng (hoặc cháu đích tôn) là……… ……………. vâng theo lệnh mẫu thân (nếu là cha)
và các chú bác, cùng với anh rể, chị gái và các em trai gái dâu rể con cháu nội
ngoại kính lạy.
Nay nhân ngày lễ thiết Linh theo nghi lễ cổ
truyền
Kính dâng lễ mọn biểu lộ lòng thành.
Trước linh vị của: Hiển……………. chân linh.
Xin kính cấn trình thưa rằng:
Than ôi! Gió thổi nhà Thung
(nếu khóc cha) hoặc Huyên (nếu khóc mẹ)
Mây che núi Hỗ
(nếu khóc cha) hoặc núi Dĩ (nếu khóc mẹ.)
Dung mạo một mai vắng vẻ, bão xô cây,
nghĩ lại ngậm ngùi thay
Âm dương đôi ngả xa vời, mây phủ núi,
trông càng đau đớn nhẽ!
Sương bay chớp nhoáng, bạch vân nghi ngút,
cõi phù sinh;
Nến đỏ hương thơm, án toạ hắt hiu đồ sự tử.
Vài tuần nghi tiết, mong anh hồn thấu khúc tình
văn;
Tấc dạ bi hoài, trông linh vị, tuôn dòng ai lệ!
Ôi! Thương ôi!!
– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư
Phật,
– Con kính lạy Quan đương xứ Thổ địa chính thần
– Con kính lạy đức Thành hoàng bản cảnh
– Con kính lạy Thổ Công, Thổ địa, Thổ kỳ bản gia
– Con kính lạy Hội đồng gia tiên dòng họ ………….
Hôm nay là ngày……. tháng…….. năm …………………
Con trai trưởng (hoặc cháu đích tôn) là.
……………………
vâng theo lệnh của mẫu thân (nếu là mẹ hoặc phụ
thân)và các chú bác, cùng với anh rể, chị gái và các em trai gái dâu rể, con
cháu nội ngoại kính lạy.
Nay nhân ngày Lễ Thành Phục theo nghi lễ cổ
truyền,
Kính dâng lễ mọn biểu lộ lòng thành.
Trước linh vị của: Hiển………………….. chân linh
Xin kính cẩn trình thưa rằng:
Than ôi! Núi Hỗ (nếu khóc cha) hoặc núi Dĩ (nếu
khóc mẹ) mây che
Chồi Thung (nếu khóc cha) hoặc Huyên (nếu khóc
mẹ) gió bẻ.
Cõi trăm năm, trời khéo hẹp hòi thay;
Cơ một phút, đời sao mau mắn nhẽ !
Sân Lai tử, những mong ngày tháng rộng,
Bõ công ơn áo nặng cơm dàyl
Đồ Thôi y, đâu đã lạ lùng thay, càng cám cảnh
đầu tang tóc chế..
Ôi! Thương ôi!
Trời đất làm chi cực thế! Chạnh nhớ cha (hoặc
mẹ) điều ăn nết ở, tấm lòng sầu chín khúc, rồi năm canh.
Ai xui nên nỗi này! Nỡ để con, rày nhớ mai mong,
nước mắt chảy hai hàng, đầy một mẻ.
Nay vừa chế phục sẵn rồi; bày đặt tang nghi theo
lệ
Gậy khăn tuân cứ lối thường;
Thành phục kính dâng tiền tế
Thương ôi!
– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư
Phật,
– Con kính lạy Quan đương xứ Thổ địa chính thần
– Con kính lạy đức Thành hoàng bản cảnh
– Con kính lạy Thổ Công, Thổ địa, Thổ kỳ bản gia
– Con kính lạy Hội đồng gia tiên dòng họ ………….
Hôm nay là ngày…. Tháng…. Năm……
Con trai trưởng (hoặc cháu đích tôn) là……… vâng
theo lệnh của mẫu thân (nếu là mẹ hoặc phụ thân)và các chú bác, cùng với anh
rể, chị gái và các em trai gái dâu rể, con cháu nội ngoại kính lạy
Nay nhân lễ Chúc Thực theo nghi lễ cổ truyền,
Kính dâng lễ mọn biểu lộ lòng thành,
Trước linh vị của: Hiển… chân linh
Xin kính cẩn trình thưa rằng:
Thiết nghĩ! Nhân sinh tại thế,
Họa mấy người sống tám, chín mươi,
Đôi ba mươi năm cũng kể một đời.
Song vận số biết làm sao tránh được
Nhớ hồn thuở trước: trong buổi xuân xanh
Ơn mẹ cha đạo cả sinh thành, đêm ngày dạy dỗ:
Đường ăn, nỗi ở, việc cửa việc nhà.
Lại lo bề nghi thất, nghi gia
Cho sum họp trúc, mai mấy đóa
Cương thường đạo cả, lòng những lo hiếu thảo đền
ơn
Nếp kiệm cần hằng giữ sớm hôm.
May nối được gia đường cơ chỉ,
Ba lo bảy nghĩ, vất vả trăm bề
Cho vẹn toàn đường nọ lối kia,
Tuy khó nhọc chưa cam thỏa dạ;
Bỗng đâu gió cả, phút bẻ cành mai,
Hoa lìa cây, rụng cánh tơi bời.
Yến lìa tổ, kêu xuân vò võ.
Tưởng hồn trường thọ, dìu con em, khuyên nhủ nên
người.
Ai ngơ trăng lặn sao dời, hồn đã biến về nơi Tây
Trúc
Từ nay lấy ai chăm sóc, ngõ cúc, tường đào.
Từ nay quạnh bóng ra vào, cỗi
Ngày chầy sáu khắc, đêm vắng năm canh:
Tưởng phất phơ thoáng hiện ngoài mành.
Tưởng thấp thoáng bóng hình trên khói
Hiên mai bóng rọi, vào ngẩn ra ngơ.
Hết đợi thôi chờ, nắng hồng giá lạnh
Ai hay số mệnh!
Thuốc trường sinh, cầu Vương mẫu chưa trao.
Bút Chú tử, trách Nam Tào sớm định.
Bùi ngùi cám cảnh, tuôn rơi hàng nước mắt dầm
dầm
Nhớ nơi ăn, chốn ở, buồng nằm:
Như cắt ruột, xét lòng con trên trần thế.
Mấy dòng kể lể. Chiêu hồn về than thở nguồn cơn.
Cầu anh linh phù hộ cháu con. Cầu Thần Phật độ
trì, cho vong hồn siêu thoát…
– Con lạy chín phương Trời, mười phương Phật,
Chư Phật mười phương.
– Con kính lạy Bản cảnh Hậu Thổ Thần chư vị.
Tang chủ là: …………………………………………
�� �….Ngụ tại:…………….
Hôm nay là ngày … tháng…. Năm, gia đình có táng
cố phụ (hay cố mẫu) là họ………… húy hiệu…….. tiền tước là….. thọ chung ngày ….ở
khu đất này, kính dâng lễ vật……..lễ nghi các thứ
Thiết nghĩ:
Đất có dữ lành
Đều do họa phúc
Kết phát dựa vào âm đức,
Cũng nhờ Thần lực hiển linh
Ấy thực thường tình
Xiết bao cảm cách.
Những mong mồ yên mả đẹp.
Vậy dâng lễ bạc tâm thành.
Nhờ ơn Đại đức
Thấu nỗi u tình
Khiến cho vong linh.
Được yên nơi chín suối.
Phù hộ dương trần con cháu nội, ngoại bình yên.
Chúng con lễ bạc tâm thành cúi xin được phù hộ
độ trì
– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư
Phật,
– Con kính lạy Quan đương xứ Thổ địa chính thần
– Con kính lạy đức Thành hoàng bản cảnh
– Con kính lạy Thổ Công, Thổ địa, Thổ kỳ bản gia
– Con kính lạy Hội đồng gia tiên dòng họ ………….
Hôm nay là ngày…. Tháng ……. Năm …….. Con trai
trưởng (hoặc cháu đích tôn) là. ……………………
vâng theo lệnh của mẫu thân (nếu là mẹ hoặc phụ
thân)và các chú bác, cùng với anh rể, chị gái và các em trai gái dâu rể, con
cháu nội ngoại kính lạy.
Nay nhân ngày Lễ Thành Phục theo nghi lễ cổ
truyền,
Kính dâng lễ mọn biểu lộ lòng thành.
Trước linh vị của: Hiển………………….. chân linh
Xin kính cẩn trình thưa rằng:
Than ôi!
Mây núi Hỗ mịt mờ, mờ mịt
(nếu khóc cha hoặc núi Dĩ nếu khóc mẹ)
Chữ vô thường ngán nhẽ cuộc phù sinh;
Cơn bể dâu thay đổi, đổi thay
Cơ huyền diệu, ghê thay vòng tạo hóa
Ôi! Thương ôi!
Người thế ấy, mà sao phận thế ấy, bỗng đâu số
trời xui khiến, cõi âm dương, đôi ngả đã xa vời;
Vận đến đây, hay là mệnh đến đây, thắm đã nấm
đất vun vùi, đường từ hiếu, trăm năm không gặp gỡ
Mắt trông thấy, đào sâu lấp kín, tủi nỗi lòng,
chín khúc ngổn ngang;
Tai vẳng nghe, trống giục, chiêng hồi, đầy nước
mắt hai hàng lã chã
Nay đã phân kim lập hướng, cầy được thỏa yên;
Gọi rằng bát nước nén hương, kính trần bái tạ
Hỡi ơi! Xin hưởng!
(Nghỉ một lát đọc tiếp hai câu sau)
Xuất chủ kính dâng ba chén rượu, xem như còn
sống ở cao đường;
Thành Phần xin đốt một tuần hương, kính rước hồi
linh về bảo toạ.
thay vì địa táng truyền thống. Có nhiều người thắc mắc, nhiều người vẫn lo ngại
không yên tâm …… vậy phải làm thế nào?
Chúng ta hiểu rằng ở nhiệt độ 2000 độ thì phần
thịt sẽ bị tiêu hủy và ở nhiệt độ lớn hơn ( khoảng 3000 độ) thì xương cốt cũng
tan thành tro bụi.
Hiện nay có hai lập trường tư tưởng:
Trường phái thứ nhất cho rằng con người sinh ra
từ cát bụi nay chết rồi lại trở về với cát bụi , nên hỏa táng thịt xương đều ra
tro rồi bỏ vào một cái lọ nhỏ gắn xi kín để ở trên chùa hoặc nghĩa trang có bố
trí theo quy định.
Trường phái thứ hai cho rằng con người sau khi
mất quan trọng thể phách ( xương cốt) phải được giữ gìn thì phần hồn mới hưng
thịnh mà phù hộ con cháu được mạnh khỏe,……….Cho nên chỉ hỏa táng ở nhiệt
độ 2000 độ cho tiêu tan hết phần da thịt, còn lại xương cốt nguyên vẹn thì đưa
vào tiểu, quách để đem đi an táng giống như thủ tục cải cát. Đem an táng vào
thời điểm hoặc là 35 ngày hoặc là 49 ngày tùy từng trường hợp. Nhưng quan trọng
là khi an táng phần xương cốt thân nhân thì gia đình không bày biện lễ vật cúng
kiếng ở phần mộ mới. Chỉ thắp nén hương, vái lạy khấn thầm bày tỏ sự tiếc nuối
với người đã khuất và mong cho vong hồn sớm được siêu sinh tịnh độ. Muốn cúng
lễ rườm rà, dâng tiền vàng quần áo… thì phải đến giỗ đầu mới làm.
Về lý thuyết thì hai trường phái này đều đúng,
nhất là với trường phái thứ nhất áp dụng cho những người tu tập theo phật đạo.
Tuy nhiên trong thực tế thì trường phái thứ hai là hợp tình hợp lý phù hợp luật
âm, phù hợp tư tưởng truyền thống của dân tộc.
Nếu hỏa táng thành tro tất cả thì phải mất một
khoảng thời gian làm phép giúp cho vong hồn được ổn định không còn cảm thấy
thần thức bị thiêu đốt.
Sau đây là một mẫu bài văn khấn nôm để an
táng hài cốt sau khi đã hỏa táng được 35 ngày hoặc 49 ngày để cho mọi người có
thể theo đó mà tùy nghi chế biến, áp dụng :
Duy!
Kính lạy :
– Ngài đương cai bản xứ hậu thổ linh kỳ tôn thần
– Ngũ phương long mạch thủ mộ sơn thần
– Tứ vị thần linh : tả thần Thanh Long, hữu thần
Bạch Hổ, tiền thần Chu Tước, hậu thần Huyền Vũ.
– Liệt vị thị tòng bộ chúng
Hôm nay là ngày … tháng … năm …
Chúng con là:
1.
2.
3……….
Hiện cư ngụ tại địa chỉ …
Cùng toàn thể các cháu chắt nội ngoại, họ hàng
gần xa.
Kính cẩn thưa rằng :
Gia đình chúng con có thân nhân tên là …niên
sinh, do tuổi cao sức yếu ( hoặc do lâm bệnh nặng …) đã tạ thế vào …giờ … ngày
… tháng … năm … Được hỏa táng tại đài hóa thân hoàn vũ Văn Điển Hà Nội hồi ..
giờ ngày … tháng … năm …
Nay nhằm ngày … tháng … năm … cát lành, chúng
con đưa phần hài cốt của … về an táng tại nghĩa trang ….
Chúng con thành tâm biện lễ mọn lòng thành, quả
cau lá trầu, hương, hoa, trái cây, bia, rượu, chè, thuốc, xôi thịt, kính dâng
trước án, thắp nén tâm hương cúi đầu vái lạy , kính thỉnh chư vị Tôn thần lai
lâm chứng giám, chấp kỳ lễ bạc, lời kêu tiếng khấn, tờ đơn cánh sớ , chuẩn phê
văn tấu cho toàn thể gia chung chúng con được yên lòng, sở nguyện tòng tâm.
Cúi xin
tôn thần ban ân, phù hộ độ trì cho vong linh …được yên ổn, vui tươi, nhẹ nhàng
siêu thoát. Nhờ sự độ trợ đó mà chúng con được dương cơ, âm mộ, mọi chỗ tốt
lành, giúp cho người âm người dương đều được hưởng phúc lộc. Toàn thể các thành
viên trong gia chung từ nam tới nữ, từ trẻ tới già, nhờ có phúc mộ mà được
hưởng mạnh khỏe bình an gặp được nhiều điều may mắn trong cuộc sống, bốn mùa
không tật ách, tám tiết hưởng thanh nhàn.
Chúng con cúi xin Chư vị tôn thần cho phép được
đưa tiễn phần hài cốt của thân nhân chúng con và vong linh nhập nơi mộ phần tại
nghĩa trang này, ngày hôm nay vào hồi … giờ … phút và xin được sửa sang, trang
trí phần mộ, bồi xa bồi thổ, cho được dầy bền, tu sửa minh đường cho thêm vững
chắc.
Nhờ ơn Phật, Thánh phù trì, đội đức Trời che Đất
chở, cảm niệm Thần Linh phù độ, khiến cho gia chung chúng con được chữ bình an,
âm siêu dương thái. Chúng con xin vì chân linh …., phát nguyện làm nhiều việc
thiện ích để lấy công đức hồi hướng về Tiên Tổ.
Từ nay dẫu xa xôi hai ngả âm dương nhưng tâm trí
luôn nhớ nhung bền chặt. Cúi xin vong linh chứng giám, thần thông ba bước về
phù hộ độ trì các con các cháu, qua lại soi xét cửa nhà. Che tai cứu nạn, ban
tài tiếp lộc, điều lành mang đến, điều dữ xua đi. Độ cho gia đạo hưng long, quế
hòe tươi tốt, cháu con vinh hưởng lộc trời, già trẻ nhuần ơn Phật Thánh.
Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin
Cẩn cáo!