CHU
DỊCH VÀ KINH DỊCH
Lương Trâm
Chu dịch và Kinh dịch hay nói đúng hơn là Chu dịch và Bói Dịch không hòan
tòan giống nhau.
– Thứ nhất là khác nhau về hình thức,
bói dịch dùng thi thơ để giảng còn Chu dịch dùng văn xuôi để giảng.
– Thứ hai là bói dịch có nhiều lọai gồm :
8 Quẻ ba hào như Liên Sơn dịch đời Hạ có quẻ đầu là Cấn, Qui tàng dịch đời
Thương có quẻ đầu là Khôn.
32 Quẻ năm hào như “Tam Bửu Hiệp nhứt” người Việt hay thường sử dụng
64 Quẻ sáu hào “ Bói dịch cổ truyền” người Việt hay thường sử dụng
Khác với bói dịch, Chu dịch chỉ có một
lọai là 64 quẻ sáu hào, được ghi chép có hệ thống dạng kinh điển , còn dùng
để nghiên cứu, không như những sách bói “diệc” chỉ dùng cho việc chiêm bói
được lưu hành trong dân chúng.
Trước hết xin nói về cách trình bày
của các lọai bói dịch người Việt hay xử dụng
Quẻ năm hào .Ví dụ: quẻ Giá sắc
Nội dung
:
Dịch nghĩa :
Thả thủ quân tử
phận.
Quân tử nên giữ phận
Vật dụng tiểu nhân ngôn.
Chớ nghe lời tiểu nhân
Phàm sự giai đương
cẩn Mỗi việc nên cẩn
thận
Tác phước bảo an
nhiên Làm lành vậy
mới yên
Quẻ sáu hào . Ví dụ : Phong Sơn Tiệm ( Hồng nhạn phi cao)
Ý nghĩa : Chim Hồng nhạn được sổ lồng bay xa.
Tiến từ từ bay lên mây trong sự thông đạt thong dong.
Không có gì cản trở.
Nhưng không thể bay vụt từ trong lồng lên mây ngay được.
Giải đóan : Vận khí thịnh đạt dần dần. Công việc mỗi ngày đều phát
triển đều đặn. Không gặp trở ngại. Thành quả rất to lớn so với lúc khởi sự.
Lời khuyên: Giữ tiết hạnh thanh cao. Ung dung không vội vả.
Phụ chú : Giải trừ mọi tai ương. Tuy tiến chậm nhưng rất yên ổn.
Hào 1 : trung bình, tiến hơi chậm
Hào 2 : rất tốt
Hào 3 : trung bình
Hào 4 : tốt
Hào 5 : tốt
Hào 6 : rất tốt, đại cát
Ứng hạp : Tuổi Bính : Thìn, Ngọ, Thân
Tuổi Tân : Mão, Tỵ, Mùi
Tháng 1
Hành thổ
Lời giảng của của quẻ này viết theo
văn xuôi nhưng được ngắt ra 4 đọan, có lẽ vào đời Tần bị cấm thi thơ, các
lọai sách đều phải chép lại bằng văn xuôi.
Tiếp đến là cách trình bày quẻ trong Kinh Dịch : Quẻ Phong Sơn tiệm ( xin
không trích giảng hào từ)
Thóan từ: Tiệm, nữ qui cát, lợi trinh.
Dịch : Tiến lần lần, như con gái về nhà chồng, tốt; giữ đạo chính
thì lợi.
Giảng : Quẻ này là Tốn ( cây), dưới là Cấn( núi). Trên núi có cây, có cái
tượng dưới thấp lần lần lên cao, nên đặt là Tiệm.
Tiến mà lần lần, không nóng nảy, vẫn tỉnh như nội quái cấn, vẫn hòa thuận
như ngọai quái Tốn thì không bị vấp váp, không bị khốn cùng.
Hào từ :
– Sơ lục : Hồng tiệm vu can, tiểu nhân lệ, hữu ngôn vô cửu.
Dịch : Hào âm 1, con chim Hồng tiến đến bờ nước, nhỏ dại cho là nguy, than
thở nhưng không có lỗi.
– Lục nhị : Hồng tiệm vu bàn, ẩm thực khản khản, cát.
Dịch: Hào 2 âm, chim hồng tiến đến phiến đá lớn, ăn uống thảnh thơi, tốt
– Cửu tam : Hồng tiệm vu lục, phu chinh bất phục, phụ dựng bất dục, hung
lợi ngự khẩu.
Dịch: Hào 3 dương, chim hồng tiến tới đất bằng, chồng đi xa không về, vợ có
mang không nuôi, xấu, đuổi cướp thì có lợi.
– Lục tứ : Hồng tiệm vu mộc, hoặc đắ kỳ giốc, vô cửu.
Dịch : Hào 4 âm, chim hồng nhảy lên cây, may tìm được cành thẳng mà đậu,
không có lỗi.
– Cửu ngũ : Hồng tiệm vu lăng, phụ tam tuế bất dụng, chung mạc chi thắng,
cát.
Dịch : Hào năm dương, chim hồng lên gò cao, vợ ba năm không sinh đẻ, nhưng
cuối cùng không có gì thắng nổi điều chính, tốt.
– Thượng cửu : Hồng tiệm vu qui, kỳ vũ khả dụng vi nghi, cát.
Dịch : Hào trên cùng dương, chim hồng bay bổng ở đường mây. Lông nó có thể
dùng làm đồ trang sức, tốt.
Hai lọai dịch trên mặc dù có khác nhau về hình thức, nhưng nhìn chung tất
cả đều có đặc điểm là có hào âm,hào dương. Âm dương được hình thành do sự
vận động của vũ trụ. Sự vận động này thuận theo chiều hướng sinh của ngũ
hành hình thành bát quái. Đó là học thuyết Âm dương- Ngũ hành của người
xưa.
1/ Thưyết Âm Dương- Ngũ Hành :
a- Sự hình thành Âm Dương :
Thái cực vận động sinh ra lưỡng nghi, tức là hai khí : Âm và Dương. Phần
dương thì động, nóng, sáng, trong, nhẹ, nổi lên trên sinh ra khí dương và
nơi tích lũy nhiều khí dương là bầu trời được ký hiệu là ( ). Dương được
sinh ra từ cực Bắc và bên trái chủ dương.
Phần âm thì tỉnh, lạnh, tối, đục, nặng, chìm xuống dưới sinh ra khí âm và
nơi tích lũy nhiều khí âm là đất được ký hiệu là ( ) . Âm được sinh ra từ
cực Nam và bên phải chủ âm.
Cực Bắc
Hình lưỡng nghi
Âm dương có sự liên hệ thần bí, đó là sự hấp dẫn lưỡng tính thần kỳ. Theo
Lôi Đạc, trong tác phẩm Mỗi ngày 10 phút với Chu Dịch, nhà ảo thuật Trung
quốc nổi tiếng là Tàng quốc Chân đã phát hiện điều này khi đem hai con thạch
sùng đực, cái ném mạnh xuống đất. Khi đuôi của hai con thạch sùng bị đứt,
chúng nhảy nhót trên mặt đất, rồi hai chiếc đuôi ngày càng gần lại với
nhau, dựa sát vảo nhau sau đó bám chặt lấy nhau thành hình “bánh quấn
thừng:. Thế nhưng dùng hai con thạch sùng cùng giống thì không thấy có hiệu
ứng này. Một thử nghiệm khác nữa là bắt vài con thạch sùng có bốn chân,
phân biệt đực – cái, chặt đuôi và lột da chúng ra, sau khi đốt cháy nghiền
thành bột, đổ vào hai cây nến rỗng ruột, đặt trên bàn cách nhau 30 cm, châm
lửa trên hai cây nến đó. Điều kỳ dị đã xuất hiện, hai ngọn lửa hấp dẫn
nhau, dần dần dựa sát vào nhau, cuối cùng dính lại tạo thành một tuyến lửa
nằm ngang như chiếc cầu vồng được đặt tên là “ cầu lửa”.
Qua phát hiện đó có thể thấy được tuy âm dương là hai yếu tố tương phản
nhau nhưng trong mọi vật hai yếu tố âm dương luôn dung hòa lẫn nhau, tương
giao cùng nhau, bổ túc cho nhau, liên kết với nhau rất mật thiết. Cả hai
đều đóng vai trò quan trọng trong sự sinh thành của muôn vật, tất cả sự
biến hóa trong vũ trụ đều có thể giải thích bằng hiện tượng chuyển biến của
âm dương. Âm trưởng thì dương sẽ tiêu, dương trưởng thì âm sẽ tiêu, âm tăng
đến chỗ cực thịnh thì dương sẽ phát sinh và âm sẽ phải thóai dần, khi dương
tăng đến chỗ cực thịnh thì âm sẽ phát sinh và dương sẽ thóai dần, đó là lẽ
tuần hòan của âm dương trong trời đất như : Mùa đông âm khí nhiều khí hậu
lạnh. Cuối đông âm khí thịnh, dương khí bắt đầu phát sinh. Qua xuân dương
khí mới phát sinh còn non, khí hậu ấm áp dần dần. Đến mùa hạ dương khí tăng
trưởng, khí hậu nóng. Cuối hạ dương khí cực thịnh khí hậu nóng bức và âm
khí sẽ phát sinh. Qua mùa thu âm khí mới phát sinh còn non khí hậu mát, âm
khí dần dần tăng trưởng lại bước qua đông…. cứ như thế mà tiếp diễn ;
hoặc cũng như chuyển biến âm dương trong ngày đêm : từ nửa đêm – sáng sớm –
giữa trưa – buổi chiều – lại nửa đêm. Sự âm tiêu dương trưởng và dương tiêu
âm trưởng tiếp diễn nhau rất cần thiết để điều hòa sự tuần hòan của trời
đất, nếu dương cực thịnh mãi mà âm khí không phát sinh hoặc ngược lại thì
trời đất bất hòa và sự sinh hóa của của muôn vật sẽ rối lọan như : chỉ có
đêm mà không có ngày hay ngược lại, thời tiết nóng mãi hoặc lạnh mãi đều
bất lợi cho sự sinh trưởng của vạn vật. Mặt khác, trong sự chuyển hóa để
tương giao với nhau, dương khí có khuynh hướng thăng cao lên tức ly tâm, âm
khí có khuynh hướng giáng xuống thức hướng tâm. Đó là dương thăng, âm
giáng.
Ví dụ : không khí nóng có khuynh hướng
bay lên cao, không khí lạnh có khuynh hướng hạ xuống thấp. Sự kiện không
khí vùng lạnh thay thế vùng nóng sẽ sinh ra gió.
Sự vận động của âm dương sẽ sinh ra 4 khí gọi là tứ tượng : Thái âm –Thiếu
dương – Thái dương – Thiếu âm
Hình tứ tượng
Từ bốn khí này giao hòa thăng giáng
với nhau, tạo ra sự đối kháng, chuyển dịch. Đây chính là động lực phát
triển cũa sự vật, hiện tượng, con người. Động lực ấy thể hiện ra 8 dạng
thức trong không gian, đó là bát quái. Bát quái với 5 thuộc tính ngũ hành
đã tạo ra vũ trụ, vạn vật, trong đó có con người với hành vi của họ.
Bát quái với tính chất gắn liền với bầu trời xin được tạm gọi là “Thiên Bát
Quái”
Bát quái có tính chất gắn liền với trái đất xin được tạm gọi là “ Địa Bát
Quái”
b- Ngũ Hành :
Ngũ hành được cho là 5 dạng vật chất gồm :
– Hành Thủy tượng trưng cho nước
– Hành Mộc tượng trưng cho cây cối
– Hành Hỏa tượng trưng cho lửa
– Hành Thổ tượng trưng cho đất
– Hành kim tượng trưng cho kim lọai.
Căn cứ vào tính chất các hành trên có sự sinh, khắc với nhau
Ngũ hành tương sinh :
Thủy sinh Mộc
– Mộc sinh Hỏa
– Hỏa sinh Thổ
– Thổ sinh Kim
– Kim sinh Thủy
Ngũ hành tương khắc :
– Thủy khắc Hỏa
– Hỏa khắc Kim
– Kim khắc Mộc
– Mộc khắc Thổ
– Thổ khắc Thủy
Năm hành trên được xếp thành các phương vị trên Hà Đồ, Lạc Thư.
3/ Thuyết Thiên Địa Nhân : Thuyết Thiên Địa nhân nói lên sự chi phối của
trời đất đối với con người.
– Thiên : Thiên can là tọa độ không gian được thể hiện ở 10 vị trí :
Giáp , Ất , Bính , Đinh , Mậu , Kỷ , Canh , Tân , Nhâm , Quí. Thiên là
khỏang không gian bao la, trong Thiên có ba yếu tố hợp thành là Nhật ( mặt
trời) ; Nguyệt ( mặt trăng) ; Tinh ( các vì tinh tú). Vạn vật con người
chuyển dịch trong không gian theo 10 thiên can, được Nhật, Nguyệt, Tinh
chiếu vào tác động ảnh hưởng suốt cả cuộc đời, do vậy yếu tố năm, tháng,
ngày, giờ sinh được người xưa cho là có thể quyết định được vận mệnh của
từng người.
– Địa : Địa chi là tọa độ thời gian được thể hiện ở 12 vị trí thời
gian trong năm , tháng, ngày, giờ gồm : Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ,
Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Địa được cấu thành bởi 3 yếu tố thủy , hỏa ,
phong. Từ yếu tố địa , người xưa hình thành nên môn địa lý phong thủy dùng
để xem xét sự vận động hài hòa của thủy hỏa phong, nếu mất cân bằng trong
vận động của ba yếu tố này ở một địa điểm mà một người đang sinh sống thì
người đó sẽ gặp trở ngại và tai họa.
Tóm lại, nói Thiên Địa Nhân là nói con người luôn luôn bị chi phối bởi
Thiên và Địa, ba yếu tố này tương tác lẫn nhau, con người muốn tồn tại,
sinh sống bình thường phải có sự cân bằng giữa bản thân với thiên địa.
Không gian Dịch là không gian Thiên Địa Nhân, là thế giới của âm dương giao
hòa, chuyển hóa cho nhau, thế giới giữa hai mặt đối lập tồn tại và bổ xung
cho nhau nên khi nắm bắt được chuyển động đó người xưa đã lập ra mô hình
trạng thái không gian gọi là âm, dương ( lưỡng nghi). Âm, dương vận động
sinh ra bốn khí gọi là tứ tượng, lại tiếp tục vận động thành ra bát quái
2/ Hà Đồ – Lạc Thư :
Hà Đồ- Lạc Thư đã được người Trung hoa xem như nguồn gốc của bát quái có
nghĩa là sự hình thành của bát quái phải được gợi ý của Hà đồ-Lạc Thư,
thánh nhân mới dựa vào đó mà phỏng theo. Hình dạng của Hà Đồ – Lạc Thư ra
sao không ai biết được , chỉ nghe nói đến từ cháu của Không Tử là Khổng An
Quốc nhưng mãi đến đời Tống hai đồ hình đó mới thấy phổ biến.
Căn cứ vào “ Dịch học Tượng số luận” của Hòang Tông Nghi thì Trần Đòan đã
truyền cho Chủng Phóng, Chủng Phóng truyền cho Lý Khái, Lý Khái truyền cho
Hứa Kiên, Hứa Kiên truyền cho Phạm Ngọc Xương, Ngọc Xương truyền cho lưu
Mục. Lưu Mục căn cứ vào Hà đồ-Lạc Thư trước tác ra “ Dịch số câu ẩn đồ”,
bức đồ của ông mới được đông đảo người biết đến. Cho đến nay người ta cũng
chưa hiểu được, vào đời Tống, vị đạo sĩ ở Hoa Sơn là Trần Đòan đã lấy ở đâu
ra được những hình Hà đồ-Lạc Thư ấy.
Sau khi Hà đồ-Lạc Thư ra đời, một bộ phận trong học phái này chia rẽ. Một
số người không tin vào những thứ này, nhà Đại văn học Âu Dương Tu cho rằng
: “đầu độc sai lầm vào những người học giả, gây tác hại đâu có nhỏ”. Cuộc
tranh luận này kéo dài tới cuối đời Thanh, Dân quốc, thậm chí đến sau ngày
giải phóng .
a- Hà Đồ: Theo ghi chép của người Trung Hoa, Hà đồ là vật mà Hòang Đế được
trời ban cho từ sông Hòang Hà, trên lưng con long mã, đồ hình có 5 cặp số
được sắp xếp như sau : 1 với 6 ở dưới là số sinh thành của thủy ở phía Bắc
2 với 7 ở trên là số sinh thành của hỏa ở phía Nam.
3 với 8 ở bên trái là số sinh thành của mộc ở phương Đông
4 với 9 ở bên phải là số sinh thành của kim ở phương Tây
5 với 10 là số sinh thành của thổ ở trung ương.
Hà đồ là bức đồ đầu tiên của kinh dịch, sự vận hành của nó theo chiều hướng
sinh của ngũ hành. Bắt đầu từ thủy sinh mộc = đông sang xuân; mộc sinh hỏa
= xuân sang hạ; hỏa sinh thổ – vào trung tâm, thổ sinh kim = hạ sang thu;
kim sinh thủy = thu sang đông.
Hình Hà đồ
b-Lạc Thư : Theo truyền thuyết Lạc thư do thần qui mang trên lưng
nên có tượng con rùa đầu đội 9, đuôi mang 1, bên trái mai mang 3, bên phải
mai mang 7, vai bên trái mang 4, vai bên phải mang 2, chân trái mang 8,
chân phải mang 6, giữa lưng mang 5
Hình Lạc Thư
Theo các nhà nghiên cứu thì Lạc thư là
một dạng Cửu tinh Đồ, là Cửu trù Hồng Phạm, nếu đọc theo chiều nghịch kim
đồng hồ là biểu đồ phương vị ngũ hành được vận hành theo hướng khắc.
Do vậy, theo thiển nghĩ, bát quái phải được dựa vào Hà đồ để thiết lập vì
ngũ hành có tương sinh thì muôn vật mới được sinh hóa, nói lên sự sinh sinh
nối tiếp nhau không ngừng của đạo dịch.
Thử vẽ Bát quái :
1/ Thiên Bát quái : ( biểu đồ tiết khí)
Bốn Mùa
Từ 4 mùa âm dương lại biến đổi thành 8
tiết khí dựa trên cơ sở 2 cụm tứ tượng, bắt đầu từ điểm cực âm. Theo lẽ tự
nhiên, cực âm sẽ sinh dương , cụm tứ tượng bên trái sẽ được sinh dương, khi
dương thịnh đến điểm cực dương cụm tứ tượng bên phải sẽ được sinh âm, từ đó
có được hệ thống bát quái gắn liền với trời như thời tiết, gió mưa, là biểu
đồ bát tiết.
Xem xét biểu đồ trên, có thể thấy các
tiết khí chuyển biến theo hướng sinh, bắt đầu từ điểm cực âm theo chiều
thuận kim đồng hồ : Bắt đầu từ thủy sinh mộc = đông sang xuân ; mộc sinh
hỏa = xuân sang hạ ; hỏa sinh thổ – vào trung tâm, thổ sinh kim = hạ sang
thu; kim sinh thủy = thu sang đông. Hướng sinh trên thuận theo lẽ tự nhiên
thành ra tám tiết khí :
– Khôn : cực âm ( ) tiết đông chí – dương thủy- vị trí số 1
– Chấn : bắt đầu sinh dương ( ) tiết lập xuân – âm mộc- vi trí số 8
– Ly : âm tiêu dương trưởng ( ) tiết xuân phân – dương mộc – vị trí
số 3
– Đòai : dương thịnh ( ) tiết lập hạ – âm hỏa – vị trí số 2
– Kiền : cực dương ( ) tiết hạ chí – dương hỏa – vị trí số 7
– Tốn : bắt đầu sinh âm ( ) tiết lập thu – âm kim – vị trí số 4
– Khảm : dương tiêu âm trưởng ( ) tiết thu phân-dương kim-vị trí số
9
– Cấn : âm thịnh ( ) tiết lập đông – âm thủy – vị trí số 6
Thứ tự của bát quái trên thuận theo hướng sinh là : Khôn, Chấn, Ly , Đòai ,
Kiền , Tốn , Khảm , Cấn, được hiểu như một hệ thống bát quái có tính chất
gắn liền với trời như : thời tiết, khí tượng , gió mưa…. Hệ thống này
được Trung Hoa gọi là Tiên Thiên Bát Quái. Tuy vậy , người Trung hoa không
dùng Tiên thiên bát quái để giải thích thời tiết mà dùng để giải thích về
địa lý, phương hướng như sau :
– Khôn : là đất nên ở phương Bắc, vì phương bắc giá lạnh nên thuộc
thủy
– Chấn : ở Đông bắc vì gió từ Tây nam thổi qua đông bắc gây tiếng
động, hoặc sáng (ly) tối (khảm) cọ sát nhau sinh ra sấm.
– Ly : là mặt trời nên ở phương đông,vì mặt trời mọc ở phương đông
– Đòai : ở Đông nam vì phía Đông nam Trung hoa nhiều đầm hồ
– Kiền : là trời nên ở phương nam, phương nam nóng thuộc hỏa
– Tốn : ở Tây nam là nơi nóng (nam) và lạnh (tây) xô xát sinh ra gió
– Khảm : là mặt trăng nên ở phương Tây, vì mặt trăng hiện ra ở
phương tây
– Cấn : ở Tây bắc vì tây bắc Trung hoa có nhiều đồi núi.
2/ Địa bát quái : ( biểu đồ địa lý phương hướng)
Về Địa bát quái, hiện nay chưa rõ được kết cấu như thế nào nhưng cũng xin
đề xuất đồ hình để tham khảo
Ví dụ : Địa bát
quái
Hậu Thiên bát quái
Địa Bát quái, được hiểu
như hệ thống bát quái có tính chất gắn liền với trái đất như : địa lý, phương
hướng , được sắp xếp một cách hợp lý như sau :
– Cấn , hành thổ mượn vị trí số 1, có ba hào : âm+âm+dương= dương
thổ
– Chấn ở vị trí số 8 thuộc mộc, có ba hào : dương+dương+âm= dương
mộc
– Tốn ở vị trí số 3 thuộc mộc, có ba hào : dương+dương+âm = âm mộc
– Ly ở vị trí số 2 thuộc hỏa, có ba hào : dương+âm=dương = âm hỏa
– Khôn hành thổ mượn vị trí số 7, có ba hào : âm+âm+âm = âm thổ
– Đòai ở vị trí số 4 thuộc kim, có ba hào : dương+dương+âm = âm kim
– Kiền ở vị trí số 9 thuộc kim, có ba hào : dương+dương+dương =
dương kim
– Khảm ở vị trí số 6 thuộc thủy, có ba hào : dương+âm+dương = dương
thủy
So sánh với Hậu thiên bát quái của Văn Vương:
– Cấn mượn vị trí số 8 thuôc thổ
– Chấn ở vị trí số 3 thuộc mộc
– Tốn ở vị trí số 2 thuộc hỏa
– Ly ở vị trí số 7 thuộc hỏa
– Khôn mượn vị trí số 4 thuộc thổ
– Đòai ở vị trí số 9 thuộc kim
– Kiền ở vị trí số
6 thuộc thủy
– Khảm ở vị trí số 1 thuộc thủy
Xét theo bát quái phong thủy thì Tốn phải thuộc mộc và Kiền phải thuộc kim,
như vậy Hậu thiên bát quái xem ra có vấn đề. Hệ thống này chỉ đúng khi đứng
ngòai Hà đồ, tuy nhiên âm dương ngũ hành khi tách rời nhau sẽ không còn ý
nghĩa, do vậy suy cho cùng vẫn là sai. Một điểm sai nữa là người Trung hoa
không dùng hệ thống bát quái này để giải thích về địa lý mà gọi đó là Bát tiết
bát quái :
– Cấn : Tiết lập xuân,
– Chấn : Tiết xuân phân
– Tốn : Tiết lập hạ
– Ly : tiết hạ chí
– Khôn : tiết lập thu.
– Đòai : tiết thu phân
– Kiền : tiết lập đông
– Khảm : tiết đông chí
Có lẽ để thuyết minh cho vấn đề sai
lệch về các hành của hệ thống này, thuyết quái truyện viết : “ Đế xuất hồ
Chấn. Tề hồ Tốn. Tương kiến hồ Ly. Trí dịch hồ Khôn. Thuyết ngôn hồ Đòai.
Chiến hồ Càn. Lao hồ Khảm. Thành ngôn hồ Cấn.”
Thuyết quái truyện cũng có lời giải thích cho đọan văn khó hiểu trên : “Vạn
vật xuất ở Chấn , Chấn thuộc phương đông . Gọn gàng ở Tốn , Tốn thuộc đông
nam, gọn gàng là muốn nói muôn vật đều sạch sẽ . Ly là sáng, vạn vật cùng
thấy nhau, là quẻ ở phương Nam, đấng thánh nhân quay về phương nam mà nghe
thiên hạ, hướng vào nơi ánh sáng mà trị là tượng ở đấy. Khôn là đất, muôn
vật đều được nuôi dưỡng ở đó, cho nên nói là làm việc ở Khôn. Đòai là chính
thu, vạn vật đều vui vẻ, nên nói vui vẻ là nói ở Đòai. Đánh nhau ở Kiền,
Kiền là quẻ ở tây bắc, đó là nói về âm dương xô xát vậy. Khảm là nước, là
quẻ ở chính Bắc, là quẻ khó nhọc, muôn vật đều ở đó nên nói khó nhọc ở
Khảm. Cấn là quẻ đông bắc, nơi muôn vật thành ở lúc cuối và lúc đầu, nên
nói thành là nói Cấn”.
Lời giải thích trên khi đọc xong lại càng thấy khó hiểu, nên xin được đề
xuất lời giải thích khác như sau :
– Đế xuất hồ Chấn : là mặt trời mọc ở phương đông.
Vấn đề chính là đây. Theo tôi, vị trí mặt trời mọc là vị trí bước qua số 1
của Hà Đồ, là qua cực Bắc đã sinh dương, về thời khắc thì vào giờ Dậu nên
Chấn phải ở vị trí số 8 thuộc mộc. Đối với người tạo ra Hậu thiên bát quái
thì Chấn phải ở vị trí số 3 thuộc mộc là nơi mặt trời ló dạng, về thời khắc
thì vào giờ Mẹo.
– Tề hồ Tốn : do mang Chấn đặt vào vị trí số 3 , là chỗ của Tốn, nên phải
sắp xếp lại vị trí của Tốn.
– Tương kiến hồ Ly : Tốn bị bỏ ra phải vào vị trí số 2 thuộc hỏa, là vị trí
của Ly, nên nói là gặp nhau ở cung Ly.
– Trí dịch hồ Khôn : dể Ly có chỗ phải suy tính dời Khôn đi.
– Thuyết (duyệt) ngôn hồ Đòai : Khôn được dời vào vị trí số 4 thì Đòai phải
vào vị trí của Càn ở số 9 thuộc kim, đến Đòai thì thuyết phục được.
– Chiến hồ Càn : tranh cãi ở Càn. Khi Đòai vào vị trí của Càn thì Càn phải
dời vào chỗ của Khảm số 6 thuộc thủy mà Càn thì thuộc kim.
– Lao hồ Khảm : mặc dù Càn thuộc kim nhưng vì muốn thực hiện việc chỉnh sửa
trên nên phải ép Càn vào ở vị trí của Khảm nên nói là lao hồ Khảm
– Thành ngôn hồ Cấn : đến cung Cấn thì kết luận, đã quyết định xong.
Đọan văn khó hiểu trên có lẽ ghi lại
sự tranh cãi giữa Hoa tộc và người đại diện cho Hoa Hạ là Cộng công. Cộng
công được biết như là một chức quan trông coi về khoa học kỹ thuật ở thời
ấy. Theo ghi chép của Trung Hoa, giữa cháu nội Hòang đế là Chuyên Húc và
Cộng Công vào thời ấy đã có sự bất đồng ý kiến về khoa học kỹ thuật qua
truyện kể về Cộng Công húc đầu vào núi Bát Chu như sau :
Cộng Công là người có công lao rất lớn trong phát triển nông nghiệp của
Trung hoa được dân chúng tôn là Thủy sư tức thần nước. Con của ông là Hậu
thổ cũng có năng lực trong nghề nông được dân chúng tôn là Xã thần tức thần
đất, là các thần quản về thủy lợi. Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình
đất ở 9 châu họ đã thống nhất là phải sửa bằng đất đai, tuy nhiên ý đồ này
không được Chuyên Húc đồng ý. Cộng công vì giận mà húc đầu vào núi Bát Chu.
Bát Chu là núi Côn Lôn, ngọn núi có
những quái thạch nhọn hoắt, cao chạm tầng mây. Sau cú húc mạnh của Cộng
Công, quả núi này lập tức gảy gập ngay, đất đá lở xuống ầm ầm, cây cối ngã
nghiêng, trời đất mù mịt, tưởng như xảy ra động đất, bầu trời nghiêng ngã.
Thì ra theo lời đồn đại, núi này chính là cây cột chống trời, cột trời sụp
thì dây chằng đất đứt rời từng khúc, do đó phía Đông nam sụp xuống lấp bằng
chỗ trũng khiến cho sông ngòi đều theo dòng chảy về phía đông rồi đổ vào
biển đông. Bầu trời khi đó nghiêng về phía Tây Bắc cho nên các vì tinh tú ,
mặt trời, mặt trăng ngày ngày đều mọc ở phía Đông và lặn ở phía Tây….
Phân tích câu truyện trên có thể suy
ra : núi ( Cấn) Bát Chu sụp xuống làm dây chằng đất (Khôn) đứt rời, có
nghĩa trục Khôn-Cấn trở lại là trục thẳng ; phía Đông nam (Tốn) sụp xuống ,
bầu trời nghiêng về phía Tây Bắc (Càn), có nghĩa là trục Tốn Càn trở lại là
trục ngang, các vị trí đó là Càn-Khôn-Cấn-Tốn trong tư nam thời Xuân thu
chiến quốc. Cuối cùng là mặt trời lại mọc ở phương Đông là vị trí số 8 trên
Hà đồ.
Nhưng tại sao Cộng Công lại phải húc
đầu vào núi Bát Chu ?
Bởi vì núi là tượng Cấn. Liên Sơn Dịch
của Hoa hạ lấy quẻ đầu là Cấn. Nói là Cộng Công húc đầu vào núi Bát Chu có
nghĩa là muốn sửa bái quái của tộc Chu cho đúng với vị trí ban đầu. Sự bất
đồng này có lẽ cũng nghiêm trọng, vì sau đó những người tộc Hạ sống trên
đất Tề thường lo sợ về chuyện bị “trời sập”.
Tư Mã Thiên cho rằng Hậu Thiên bát
quái là sản phẩm của Văn Vương có lẽ do trong các quẻ bói mà người Việt
đang dùng có một số quẻ đã đề cập đến những vấn đề liên quan đếnVăn Vương
như:
Quẻ “Vị thủy phong hiền” còn gọi là Sơn Lôi di :
Khương Tử Nha là bậc đại hiền.
Ngồi câu cá chờ thời bên bờ sông Vị thủy.
Vua Văn Vương nghe tiếng đích thân đến tận nơi thỉnh ra giúp nước.
Rước về tôn làm thường phụ.
Quẻ “ Phượng minh Kỳ sơn”- Thiên trạch lý :
Phượng hòang bất thần xuất hiện ở núi Kỳ sơn cất tiếng gáy.
Báo hiệu điềm lành.
Vua Văn Vương ra đời.
Tạo dựng một thời đại thái bình thạnh trị.
Quẻ “Trảm tướng phong thần” – Thủy trạch tiết :
Đời nhà Thương có vua trụ bạo ngược.
Khương Tử Nha vì đại nghĩa diệt được Trụ vương.
Muốn cho óan khí của quân thù tiêu tán để quốc thái dân an.
Nên đã lên “Vạn phong Sơn” cầu siêu, phong thần cho tướng sĩ tử trận.
Về nguồn gốc Kinh dịch, một số nhà
nghiên cứu cho rằng Kinh dịch không thực sự là của Trung quốc. Ông
Hondanariyouki nhận xét “ Ở Chu dịch, các từ thóan tượng đều lấy tên từ các
lọai muông thú phương nam (chim hồng). Thêm vào đó, ở Chu dịch có “phi
long”; “tiềm long” càng khiến cho người ta cảm thấy Chu dịch là trước tác
của người nước Sở viết ra, và ra đời sau khi Trung quốc đã mở đường giao
thông về phía nam Kinh Sở”.
Nói về các tộc người đã từng sinh sống trên đất Trung Hoa, Theo
http://www.uglychinese.org thì trên đất Trung Hoa thời xa xưa đã có họ
Suiren ( Tọai Nhân), sau đó họ You Chao ( Hữu sào) đã thay thế họ Tọai
nhân, tiếp nữa là họ Fuxi ( Phục Hy) và Nuwa ( Nữ oa) đã thay thế họ Hữu
sào, sau cùng là họ Shennong (Thần nông) đã thay thế họ Phục Hy.
Theo truyền thuyết cũng như thuyết quái truyện của kinh dịch thì họ Tọai
nhân đã phát minh ra “lửa” ; họ Phục Hy đã phát minh ra “ cái lưới” và chữ
viết dưới dạng “thắt nút kết thằng” ( chữ khoa đẩu ?) để ghi việc, đã biết
trồng trọt chăn nuôi ; họ Thần Nông phát minh ra “cái cày” , mở chợ lập
làng , tìm ra cây thuốc. Đó chính là Tam Hòang. Ngòai ra không thấy đề cập
đến Hữu Sào đã phát minh ra những gì.
Gần đây khảo cổ học đã khai quật được
một dụng cụ làm ra lửa ở Chiết Giang có niên đại cách đây hơn 8000 năm, cho
thấy rằng họ Tọai Nhân là người Hòa Bình ở di chỉ Hemudu ở bờ nam sông Trường
Giang có lẽ đã di cư lên phía Bắc đến di chỉ Dawenkou ở Sơn Đông khỏang
4300 tr.cn khi vùng này bị ngập mặn do nước biển dâng. Họ Tọai Nhân đã bị
họ Hữu Sào , tổ tiên của người Hàn quốc đến thay thế vào khỏang 3898 tr.cn.
Họ Hữu sào lại bị họ Fuxi, có lẽ là tổ tiên của tộc Khương cũng được gọi là
Viêm Đế từ phía Tây đến thay thế. Khảo sát kỹ có thể thấy được ngòai họ
Khương ra Tộc Khương còn có họ Phù, những cái tên có liên quan như Phù sai
(Fu chai), Phù nam……v.v . Phục Hy và Nữ Oa được cho là hai anh em do đó
có thể Tộc Khương sau khi đến Trung Hoa đã kết lại với nhóm tiền Đông Nam Á
để phát triển nông nghiệp. Ở Việt Nam có câu ví : bà Nữ Oa bằng ba mẫu
ruộng .
Ở Trung hoa vào thời Phục Hy, người
xưa có lẽ đã hiểu được qui luật âm dương và sự vận động của nó, đã thuận
theo những qui luật ấy để phát triển nông nghiệp. Trong kinh dịch cũng có
đề cập đến Phục Hy đã trông trời, trông đất, trông vạn vật mà vẽ quái, thời
diểm này có thể là họ Phục Hy không chỉ vẽ quái mà ít nhất đã biết đến tứ
tượng tức là bốn mùa để theo đó mà trồng trọt. Khi Thần Nông đến thì Phục
Hy bị thay thế vì họ Thần Nông đã phát minh ra cái cày và phương thức tát
nước vào ruộng để cải tiến và phát triển nền nông nghiệp của Phục Hy và Nữ
Oa. Họ Thần Nông đã từng vượt biển nên ắt phải có kiến thức về thiên văn
khí tượng và địa lý phương hướng, ắt họ phải là chủ nhân của Hà đồ.
Với các chi tiết đã trình bày trên, tôi cho rằng học thuyết Âm dương ngũ
hành và thuyết Thiên Địa Nhân có nhiều hy vọng là của người tiền Việt nam.
Nó được ra đời không nhằm mục đích chiêm bói mà trước tiên để tiên đóan
thời tiết và xác định phương hướng nhằm phục vụ cho nghề đi biển và nghề
nông , các vì sao được quan tâm trước tiên là sao Bắc Cực và sao Bắc đẩu.
“Bói diệc” là lọai sách bói được phổ
biến trong dân gian tương tự như nông lịch đã được giải thích sẵn, ai xem
cũng hiểu. Kinh dịch của người Trung quốc, được dựa vào quẻ bói diệc, được
kết hợp với những ghi chép của các ẩn sĩ ở Giang nam thời ấy để sọan thảo
ra dưới hình thức một lọai sách triết , trong bộ kinh dịch này yếu tố tương
quan giữa con người với trời đất không được thể hiện đầy đủ như trong các
sách bói cổ truyền người Việt thường xử dụng.
Một điều rõ ràng là việc sáng tạo ra
học thuyết Âm dương ngũ hành , Thiên Địa Nhân không phải từ trí tuệ của một
người mà là trí tuệ của nhiều người được tích lũy từ thời đại này sang thời
đại khác do đó trong những ghi chép của người xưa cũng không thấy khẳng
định ai là chủ nhân của học thuyết này. Việc cho rằng 64 quẻ dịch là do Văn
Vương sáng tạo ra và Khổng Tử biên sọan thực chất là một sự gán ghép có lựa
chọn. Khổng Tử là một người đã từng nghiên cứu kinh dịch, những tài liệu ấy
Khổng tử lấy từ đâu ra thì không nghe nói đến, chỉ biết rằng trước kia
Khổng Tử chưa thực sự nghiên cứu bói dịch cho đến khi ông bói được quẻ “Lữ”
và mời một người họ Thương Cù trong dân gian để giải quẻ cho ông. Thương Cù
thị nói : “ Tiểu hanh, cố bào thánh trí, nan đắc thánh vị” ý nghĩa là ôm ấp
có hùng tâm xây dựng sửa sang đất nước nhưng không giành được quyền vị. Tức
thì Khổng Tử rớt nước mắt, ngộ cảm thấy rằng đường đạo của mình khó được
thi hành, từ đó mới bắt đầu nghiên cứu dịch. Tuy nhiên việc bắt đầu nghiên
cứu dịch và việc hòan thành bộ Kinh dịch là hai việc hòan tòan khác nhau.
Theo tôi, những phát minh ở đất Trung hoa đều đã có từ xa xưa nhưng việc
người thời sau tiếp thu những tinh hoa của nền văn minh trước chỉ ở chừng
mực nào đó. Ví dụ như lịch pháp nhà Hạ lấy tháng Dần làm tháng mở đầu cho
một năm, khi nhà Ân Thương lên thay, lấy tháng Sửu làm tháng mở đầu cho một
năm, đời Chu lấy tháng Tý làm tháng đầu năm, nhà Tần lấy tháng Hợi làm
tháng đầu năm. Đến thời Hán các biến cố như nhật thực , nguyệt thực, hạn
hán lũ lụt đều xảy ra khác với thời điểm được ghi trong lịch. Đúng vào lúc
Tư mã Thiên đến Giang nam tìm sử liệu được một cụ già ở đất Thương ngô tặng
cho bộ sách trúc giản vớt được trên sông Tương. Đó chính là bộ “nhật thư”
bí truyền của người Hạ . Hán vũ đế đã theo lời tấu của Tư mã Thiên, truyền
chiêu mộ ẩn sĩ ở miền Giang nam để điều chỉnh lịch theo phương pháp của nhà
Hạ, sau khi hoàn thành đặt tên là lịch Thái sơ.
Để giải thích, Chu Hy viết : “Về cách
tính thời gian nên theo nhà Hạ, nghĩa là nên lấy kiến Dần chi nguyệt làm
tháng mở đầu cho bốn mùa. Hàng năm lấy thời kỳ vạn vật sinh sôi nảy nở phồn
thịnh làm kỳ mở đầu cho bốn mùa. Cách tính của nhà Hạ giản tiện hơn cả vì
thế nên theo… trời mở đầu cung Tý, đất mở đầu cung Sửu, người mở đầu cung
Dần. Tam đại lần lượt thay đổi mà noi theo. Nhà Hạ coi cung Dần là nhân
chính phù hợp với người nên lấy kiến dần chi nguyệt làm chính nguyệt. Nhà
Ân coi cung Sửu là Địa chính phù hợp với đất nên lấy kiến Sửu chi nguyệt
làm chính nguyệt. Nhà Chu coi cung Tý là Thiên chính phù hợp với trời nên
lấy kiến Tý chi nguyệt làm chính nguyệt. Tính tháng năm dịnh bốn mùa cốt để
cho dân tiện làm ăn sinh sống, tiện hoàn thành mọi việc. Vì vậy khi tính
năm tháng, định bốn mùa nên lấy sự phù hợp với người làm đầu mối. Chính vì
vậy mà nhà Hạ lấy kiến Dần chi nguyệt làm tháng mở đầu của một năm”
Ngoài ra không thấy Chu Hy giải thích
vì sao nhà Tần lại lấy kiến Hợi chi nguyệt làm chính nguyệt.
Như vậy đã thấy rằng việc tiếp thu tinh hoa của tộc Hạ chỉ bắt đầu vào thời
Hán.Thời điểm ấy tinh hoa của Trung hoa phát ra ào ạt nhờ vào chủ trương
chiêu hiền đãi sĩ của Hán Cao tổ. Vào thời này, những nhân tài Việt trên
đất Hoa ban đầu sống như những ẩn sĩ. Sĩ là một từ để chỉ tầng lớp tri thức
ở Trung quốc. Ẩn sĩ là những người có tri thức, hoàn toàn vượt ra ngoài
vòng chính trị, có thái độ bất hợp tác và phản kháng chính quyền đương
thời, họ là những nhân sĩ tinh anh sáng tạo văn hóa, giáo hóa quần chúng.
Thấy được tác dụng tiềm ẩn trong lớp nhân sĩ, Hán Cao tổ Lưu Bang khi lên
ngôi được 11 năm đã có chiếu viết :
“ Các bậc đế vương nổi tiếng chưa ai cao hơn Văn vương, những bậc bá chủ
chưa ai cao hơn Tề Hoàn đều chiêu hiền đãi sĩ mà thành danh. Kẻ hiền gỉả,
bậc trí nhân trong thiên hạ ngày nay có ai được như người xưa… nay ta lấy
sự linh thiêng cùa trời đất, cùng với hiền sĩ đại phu trở thành người một
nhà, định đọat thiên hạ. Muốn tông miếu tổ tiên trường tồn mà không bị diệt
vong, hiền nhân đã cùng ta sao ta có thể hưởng lợi một mình. Hiền sĩ đại
phu có khả năng làm việc cùng ta, ta có thể tôn hiển họ”.
Như vậy đã có một số người Việt vì
muốn cho tông miếu tổ tiên được trường tồn, không bị diệt vong đã ở lại
trên đất của ông cha mình nay gọi là nước Trung quốc. Một điểm đặc biệt là
trong nhóm dân tộc thiểu số ở Trung hoa không có tên dân tộc Việt. Nếu ai
đó hỏi rằng :
– Vậy thì dân tộc Việt đã biến đi đâu ?
– Họ không biến đi đâu cả, họ đã trở thành người Hán.
– Họ đã trở thành người Hán, như vậy có phải tinh hoa của dân tộc họ
cũng đã trở thành tinh hoa của Trung quốc ?
– Đúng vậy !
LƯƠNG TRÂM
|