LUẬN HỘI THẢO
ĐỀ TÀI : GIẢI OAN CẮT KẾT NÉT ĐẶC SẮC CỦA TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA
Thượng Tọa Thích Quảng Tùng
Kính thưa………
Đạo Phật chỉ có một mục đích phục vụ sự sống an vui của con người và cho muôn
loài động vật cũng như các loài thực vật có sự sống. Trong gần 26 thế kỷ qua
vời lòng từ bi và tuệ giác của Đức Phật đã cảm hóa chúng sinh khắp thế gian,
học thuyết của Ngài đã trải nghiệm qua các chế độ xã hội của lịch sử tiến hóa
loài người và có những giải pháp lâu dài về vũ trụ quan, nhân sinh quan của
nhân loại.
Hiện nay nước ta đang hội nhập quốc tế và mở cửa, đón nhận nhiều nền văn minh
hiện đại làm cho xã hội phát triển năng động, tạo nên nhiều yếu tố tích cực cho
nền kinh tế xã hội tăng trưởng; Bên cạnh đó lại có nhiều vấn đề phức tạp, bức
xúc của xã hội nảy sinh và có xu hướng gia tăng nổi bật là những vấn đề tự
nhiên và xã hội mang tính toàn cầu, thiên nhiên bị hủy hoại, môi trường sống bị
đe dọa nghiêm trọng. Đạo đức xã hội băng hoại, niềm tin giảm sút, phân hóa giầu
nghèo sâu sắc, nạn thất nghiệp, nghèo đói, người tàn tật, trẻ em lang thang, tệ
bạo hành, mãi dâm, nạn nghiện hút, lây nhiễm HIV, các bệnh hiểm nghèo, dị đoan
mê tín có chiều hướng gia tăng, tội ác ngày một nhiều hơn.
Trước những vấn nạn trên, Phật giáo là tôn giáo đồng hành cùng dân tộc hơn 2000
năm trong công cuộc dựng nước và giữ nước – đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa xã
hội, Phật giáo có thể đóng góp gì cho công cuộc xây dựng chế độ mới, cuộc sống
mới với mục tiêu :“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.
Kính thưa Quý vị!
Trong Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp quốc tổ chức tại Hà Nội nhiều nét văn hóa đặc
sắc của Phật giáo văn hóa được suy tôn.
Trong khuôn khổ của tham luận này chúng tôi nêu lên nét đặc biệt của tư tưởng
Phật giáo Đại thừa qua việc cúng giải oan cắt kết, một di sản văn hóa phi vật
thể của Phật giáo Việt Nam, góp phần làm cho xã hội tốt đẹp hơn.
Phật dạy : Các vị Bồ Tát phải thiện xảo phương tiện trong việc hoằng dương
chính pháp, lợi lạc quần sinh. Tức là Bồ Tát phải khéo léo vận dụng các phương
pháp thích hợp để truyền bá tư tưởng giáo lý của Đức Phật. Tương truyền, khoa
cúng đàn thập cúng trong đó có khoa giải oan cắt kết là do Tổ Huyền Quang,
Lưỡng Quốc Trạng Nguyên soạn từ thời Trần, để thông qua việc cúng lễ, nơi tập
trung đông Phật tử, dân làng và con cháu hiếu chủ mà tuyên truyền, quảng bá tư
tưởng lục độ Ba La Mật của Phật giáo Đại thừa, giúp cho họ bỏ ác tu thiện. Vậy
mà một thời nó được gắn với tội mê tín dị đoan. Chuyện lầm lẫn đó cũng không
lạ. Bởi vì trống, phách, kèn, sáo ầm ĩ các sư pháp sự mặc áo cà sa đầu đội mũ
thất Phật, tay kéo, tay dao, khai hoa, kết ấn, chạy đàn cắt những hình người
rồi đốt, đọc, tụng toàn âm Hán – Việt chẳng biết ý nghĩa mô tê, nên các nhà
quản lý xếp luôn vào với mê tín cho xong.
Nhưng thực chất đàn cúng giải oan cắt kết là hiển giáo, lấy việc làm cụ thể để
diễn đạt cho cái trừu tượng không có hình tướng, mượn lời nói để giải thích cho
những chỗ cốt lõi của đạo không thể dùng lời nói mà diễn đạt được.
Về hình thức : Dùng một tấm vải trắng dài khoảng 8 – 10m rộng 0,40m. Căng ngang
trước đàn và dán lên đó các hình người có ghi Lục căn, Lục trần, Lục thức, Lục
độ Ba La Mật, Thập nhị nhân duyên và một cái khiên cũng theo hình người nhưng
lớn hơn treo ở tại đoạn giữa và hai đầu vải thắt lại mỗi bên ba nút. Khi cắt
hết các thứ tượng trưng trên thì tấm vải được cắt tại điểm giữa thành hai đoạn.
Bạ kết đầu : Khi Pháp sự cắt kết thì cắt nhãn căn, sắc trần, nhãn thức, cắt
giải phụ tài, cắt vô minh và hành trong 12 nhân duyên và cắt một chân của cái
khiên và cửi ra một nút thắt ở đầu vải.
Bạ hai : Pháp sự cắt nhĩ căn, thanh trần, nhĩ thức, cắt giải, phụ mệnh, cắt
thức và danh sắc trong 12 nhân duyên và một chân thứ 2 của khiên.
Bạ kết 3, 4, 5, 6 cắt các căn, trần, thức…. còn lại và mỗi bạ kết cắt xong
thì cửi tháo ra một nút vải thắt buộc.
Ngay trên đầu khoa cúng Tổ đã giới thiệu sơ lược về thân thế và sự nghiệp,
nguyện lực của Phật cứu độ chúng sinh.
“Ngưỡng bạch Đức Phật! Ngài là bậc giác ngộ tròn đầy, biết thế giới là vô
thường, dủ lòng từ bi mà cứu khổ cho chúng sinh. Cho nên Ngài giáng sinh vào
hoàng cung, cưỡi ngựa trắng vào núi tuyết để tu hành. Vào rừng xanh mà cắt tóc
tu hành, chim khách thước làm tổ trên đầu. Con nhện giăng tơ trước mắt. Tu tịch
diệt mà chứng quả chân thường, đoạn trừ trần lao mà thành chính giác. Ngài khéo
dùng pháp phương tiện cảm ứng khắp cùng, cúi xin Ngài thương xót chúng sinh mà
chứng minh công đức này.
Hôm nay có trai chủ……… lòng tin thuần khiết hết lòng nương tựa vào khoa
giáo mở đàn lục độ diễn giảng kinh văn, nhờ những lời dạy bảo giúp thêm của
pháp sự. Nghĩ rằng vong linh do căn với trần đối đãi nhau khiến cho oan nghiệp
trói buộc. Nay nhờ pháp môn Phật dạy để cửi bỏ những mối kết buộc cho chúng
sinh.
Tín chủ thành tâm thay cho chân linh tới trước Tam Bảo để giải những những phiền
não từ hồi vô thủy.
Như vậy muốn cho đàn cúng giải oan cắt kết thành công, điều cơ bản là trai chủ
phải thành tâm thay cho các vong linh ở trước Tam Bảo với lòng thương và chứng
minh của Phật để mà giải kết. Điều quan trọng thứ hai là các vị pháp sự phải
thực hành theo đúng như khoa giáo và cũng phải nhất tâm. Bởi vì lòng tin là mẹ
đẻ ra mọi công đức thiện.
Tiếp theo khoa cúng nêu lên nguyên nhân vì sao mà vong linh bị kết buộc dẫn đến
đau khổ trầm luân không thoát ra được và đưa ra ví dụ của Đức Phật trên Hội
Lăng Nghiêm, Ngài đã lấy khăn vải kết buộc vào lại cởi bỏ ra để dạy cho đệ tử
là A Nan và đại chúng rằng :
“Này A Nan, khiến cho các ông nhiều kiếp sinh tử luân hồi, chỉ vì sáu căn mà
làm cho các ông chứng được đạo quả Bồ Đề an vui giải thoát, cũng chỉ vì sáu căn
của các ông mà thôi”.
Phật học phổ thông tập 3, tr.518
“A Nan ông xem cái khăn đã buộc sáu nút dây có thể đồng một thời mở được hết
sáu nút được không?”.
“A Nan trả lời :“Bạch Thế Tôn : Sáu nút tuy cùng một cái khăn, song khi buộc đã
tuần tự mà buộc, thì khi mở cũng phải theo thứ lớp mà mở không thể cùng một lúc
mà mở được hết”.
Phật học phổ thông tập 3, tr.524
Trong khoa viết : Kính nghe! Diệu tính vốn lặng trong, thường ở yên không có đi
có đến. Ở trong chân như không thay đổi mà tùy theo điều kiện mà hiện ra là sắc
hay là không (vật chất hay tinh thần). Chỉ vì trong một loáng khởi lên vọng tâm
mà khuấy động biển giác vốn lặng trong làm cho tam tế chuyển ra thành nghiệp.
Lục thô khởi do trí trói buộc mà bị khổ. Tướng tựa vào tính khởi mà tình sinh,
trí cách ngàn trùng, tâm chạy theo vật đổi. Tướng biến dẫn đến hình thể khác ra
vạn trạng, cho tới lấy nợ, trả nợ đều là theo mê vào mê. Hoặc, nghiệp, khổ gộp
lại thì ác xấu tỏa ra. Căn, trần, thức gắn kết như keo sơn. Mắt nhìn thấy sắc,
nhãn thức tham đắm mà ái nhiễm lớn lên không ngừng. Tai nghe tiếng, nhĩ thức
phân biệt mà phải trái nối dài, cho đến mũi, lưỡi, thân, ý kết giao với xúc,
pháp, vị, hương. Thức dựa vào căn, căn dựa vào trần ba duyên hòa hợp. Tình sinh
ái, ái sinh ham muốn, nên bị vạn kiếp luân hồi. Một ngày thành oan gia thì
nhiều đời khó mà giải thoát. Cảnh trần bên ngoài khuấy động, phiền não trong
tâm nhiễm trược càng tăng. Không dời cảnh trên mà không bị trầm luân và không có
giải thoát. Trong giáo pháp thanh tịnh mà tự sinh ra trói buộc. Đức Phật tại
Hội Lăng Nghiêm nói rộng nghĩa Đại thừa rồi lấy chiếc khăn hoa ra buộc kết vào
lại cởi nút ra vì mọi người mà giải thích về lục căn và lục kết. Cho nên nói
rằng Đức Thế Tôn là bậc thày tự tại, từ chỗ không có lời nói mà mượn lời để
nói. Ở trong hư không kết buộc trong cái không mà giải cái không đó. Nay nhờ
sức từ bi của Phật sẽ vì chân linh mà giải kết”.
Qua đoạn văn bạch trên chúng ta thấy do sáu căn tiếp xúc với sáu trần khởi lên
vọng niệm phân biệt nên bị trói buộc gọi là kết. Còn bậc thánh nhân cũng từ căn
trần ấy nhưng vì giác ngộ, không khởi phân biệt, không chấp thật có ngã, có
pháp, nên được giải thoát thì gọi là Giải thoát.
Kinh Lăng Nghiêm Phật dạy :“Căn, trần cùng một thể, triền phược và giải thoát
không hai (mê thì triền phược, ngộ thì giải thoát). Các thức hư vọng cũng như
hoa đốm giữa hư không.
Vì có trần cảnh, nên ở nơi căn mới khởi ra phân biệt. Vì đã có cái năng phân
biệt ở nơi căn nên mới hiện ra cái tướng bị phân biệt là cảnh. Căn (kiến) và
cảnh (tướng) đối đãi nhau vọng hiện, chứ không thật có (vô tính)”
Phật học phổ thông tập 3, tr.518
Bạ kết thứ nhất : Bài kệ nêu lên :
Luân hồi sinh tử qua hàng nghìn vạn kiếp từ ngàn xưa,
Không được giải thoát đều do phiền não (tham, sân, si) gây nên.
Tôi nay cắt đứt gốc rễ của phiền não.
Lấy sáu pháp Ba La Mật để giải kết.
Bài kệ nói nguyên nhân đưa đến cảnh khổ của chúng sinh bị luân hồi từ xưa tới
nay và phương pháp giải trừ những mối oan kết bằng cách lấy pháp lục độ của Bồ
Tát để cắt bỏ tham, sân, si để đạt đến giải thoát và giác ngộ.
Khoa nêu lên : Nay có vong linh………… Lúc còn sống ở trên đời tâm khởi
tham lam. Tiền tài của mình không giúp đỡ cho người khác, vàng bạc châu báu mưu
toan thu vén về mình. Không biết rằng của cải ấy là vật lưu thông trong thiên
hạ, mà thu vén gom góp về chôn dấu, không đem cứu giúp người nghèo. Chứa góp
tiền tài càng nhiều thì mối oan kết càng sâu. Nay lấy bố thí để độ cho san
tham, lấy giải phụ tài (chứa góp tiền tài) để giải mối kết buộc oan gia.
Nam mô Bố Thí Ba La Mật, dĩ giải phục tài oan gia chi kết. Nghĩa là thành kính
bố thí siêu việt để cắt bỏ mối kết buộc do tham lam chứa góp tiền tài.
Theo Phật dạy : Bố thí bao gồm Tài thí, Pháp thí và Vô úy thí.
Tài thí : có nội tài và ngoại tài. Nội tài là máu, thịt, các bộ phận trong
người hoặc cả sinh mạng của mình, ngoại tài là tiền tài, của cải nhà cửa quốc
thành v.v… Nhưng cách bố thí mới là quan trọng. Theo Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La
Mật, Phật dạy :“Lúc thực hành bố thí Ba La Mật Bồ Tát đúng với tâm nhất thiết
trí (tâm Phật) mà bố thí. Quán các pháp như ảo. Không thấy có người thí, chẳng
thấy có vật cho, chẳng thấy có người nhận” hay gọi là bố thí mà không trụ
tướng, không chấp tướng.
Như vậy vì tham lam tiền bạc thu vén về riêng mình không biết chia sẻ giúp đỡ
người khác, cậy tiền của mà khinh người đã tạo thành mối oan kết. Nay lấy việc
trợ giúp người nghèo khó một cách vô tư, đó là cách cắt bỏ mối oan kết tốt nhất