Bí quyết đoán mệnh của Vương Đình Chi
Vương Đình Chi phái Trung Châu có phong cách đoán mệnh khá đặc biệt, thường căn
cứ vào tinh thần của mệnh tạo (cung Phúc đức), đạo “xu cát tị hung”, và nhấn
mạnh sự quan trọng của nỗ lực Hậu thiên, để đưa ra lời
giải.
Đẩu Số có thể
luận đoán xu hướng vận thế Tiên thiên (Thiên
vận) của một người, nhưng quyết định những tao ngộ thực tế trong cuộc
đời một con người, còn có “Địa vận” và
“Nhân
vận“.
“Địa vận” có
quan hệ đến bối cảnh xã hội, điều này cá nhân không kiểm soát
được.
Nhưng, “Nhân
vận” thì không phải là như vậy. Mỗi cá nhân đều chịu ảnh hưởng từ Cha Mẹ, Thầy,
bạn bè, .v.v… lúc lâm sự, sẽ có những phản ứng khác nhau. Đạo “xu Cát tị Hung”
(theo cát tránh hung) thực ra chỉ là kiểm soát phản ứng và quyết định của bản
thân, để tìm kết quả có lợi hơn cho mình. Vì vậy hành động của con người thuộc
Hậu thiên, thường có thể thay đổi vận thế Tiên thiên. Đây chính là Tinh hoa của
Tử vi tinh quyết mà Vương Đình Chi được bí
truyền.
Cho nên, người
nghiên cứu phải tìm hiểu rõ tính chất “hợp Cục nhập
Cách” này của Tử Vi Đẩu Số, lúc luận đoán nhất thiết không được chú trọng hoàn toàn vào
những hiển thị vận thế Tiên thiên, mà bỏ qua bối cảnh xã hội (Địa vận) và
chủ chương hành động của con người (Nhân vận) thuộc Hậu
thiên.
Có một người
từng viết thư hỏi Vương Đình Chi rằng, nếu nói mệnh vận có thể dựa vào hành động
của con người thuộc Hậu thiên để thay đổi, thế có thể chứng minh mệnh vận đã
từng thay đổi không? Ví dụ như, dùng Tử Vi Đẩu Số luận đoán, thấy một người năm
nào đó bị họa lao ngục, bèn khuyên người này đừng làm việc gì trái pháp luật.
Kết quả người này đã bình an vượt qua, nhưng làm sao chứng minh được, nếu anh ta
không nghe lời khuyên, thì nhất định sẽ gặp họa lao ngục
?
Vấn đề này đúng
là rất thâm sâu, nhất là đối với người không biết Tử Vi Đẩu Số, rất dễ nảy sinh
nghi vấn này. Vương Đình Chi đã kể một ví dụ thực tế để chứng minh phép “theo
cát tránh hung” là sự thực như sau:
Năm 1984, Vương
Đình Chi luận đoán cho một thư ký ngân hàng, phát hiện cô ta vào năm 1996 gặp
phải một nhóm sao chủ về bệnh ung thư tử cung, bèn khuyên cô ta đi kiểm tra, kết
quả trải qua 3 lần xét nghiệm, mới phát hiện có tế bào ung thư ở giai đoạn đầu,
lập tức phẫu thuật cắt bỏ. Vương Đình Chi nghĩ, nếu cô ta không làm phẫu thuật
vào năm 1985, thì năm 1986 chắc chắn bệnh sẽ phát, nhưng hiện giờ cô ta đã vượt
qua được sự hung hiểm của căn bệnh hiểm nghèo. Có lẽ
đây chính là ý nghĩa đích thực của việc nghiên cứu Tử Vi Đẩu
Số.
Nếu như nhất
định muốn truy cứu câu hỏi nói trên, liên quan tới ví dụ thực tế chứng minh việc
tránh được vận xấu như phạm pháp, phá tài, đương nhiên sẽ khó giống như trường
hợp tránh bệnh tật, nhưng đương sự cũng không phải là không còn cách nào để
tránh.
THIÊN BÀN
1-
Lấy bối cảnh văn hóa xã hội làm nên tảng
Bối cảnh văn hóa xã hội ảnh hưởng đến “cách” luận
đoán, đó là điều rất quan trọng cần phải lưu ý khi dùng Đẩu Số để đoán
mệnh.
Vương Đình Chi
nói: “Nữ mệnh có Thất Sát tọa thủ cung mệnh của Lưu niên, nếu như cung Tử tức
của nguyên cục gặp lục sát tinh: Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Địa
không, Địa kiếp, mà các sao của Lưu niên lại không tốt, chủ về sinh đẻ có nguy
cơ”. Nhưng luận đoán này đã khiến cho Vương Đình Chi bị hố, ông xem mệnh bàn của
người phụ nữ này, hỏi bà ta năm ngoái có sinh con không? Lúc sinh con có bị
phiền phức nhiều không? Người phụ nữ trả lời: “Vâng, năm ngoái có sinh con,
nhưng sinh đẻ thuận lợi”, Vương Đình Chi nhíu mày, người phụ nữ nói thêm: “Có
điều tôi dùng phương pháp gây tê toàn thân để sinh con”. Thực sự, Ông không biết
có phương pháp gây tê toàn thân để sinh con. Chiếu theo lý, “gây tê toàn thân”
cũng là có vấn đề rồi, nhưng lúc sinh con người phụ nữ không cảm thấy đau khổ và
đau đớn, nên không cho rằng có phiền phức mà thôi.
Sinh con không
ưa gặp Phá Quân, chủ về sinh con khó dưỡng. Đây cũng là thuyết của cổ nhân,
nhưng Vương Đình Chi cũng bị hớ, đứa con của người phụ nữ này, lúc mới sinh ra
được các Bác sỹ dùng kỹ thuật hiện đại chữa trị khiếm khuyết bẩm sinh về Tim cho
đứa bé, nhưng người ta không cho đó là tai nạn, cũng không cho rằng đứa bé khó
nuôi.
Do đó có thể
biết, Tử Vi Đẩu Số chỉ có thể luận đoán xu hướng của một vận mệnh, Hậu thiên có
thể thay đổi tính chất của xu hướng này. Nhất là ngày nay khoa học tiến bộ, vốn
có thể xoay chuyển vận thế Tiên thiên, những xu hướng mà cổ nhân đã lập thành
định luận.
Có thể cử một số
ví dụ để chứng minh Tử Vi Đẩu Số không phải là “túc mệnh luận“, tức chẳng
thể luận đoán ra chuyện “không thể thay đổi được”. Bởi vì khuynh hướng Tiên
thiên tuyệt đối có thể dùng việc làm Hậu thiên của con người để bổ cứu (như mệnh
bàn vừa kể trên, y học hiện đại có thể cứu sống một đứa bé, khiến cho luận đoán
“sinh con khó dưỡng” không còn chính xác). Cổ nhân căn cứ bối cảnh xã hội cổ đại
để đưa ra luận đoán, rất nhiều trường hợp không còn phù hợp với xã hội hiện
đại.
Cổ nhân nói:
“Tham lang Liêm trinh đồng cung, nam mệnh phần nhiều phóng đãng, nữ mệnh phần
nhiều đa dâm”, nếu cứ y như sách mà nói thẳng, ngày nay như vậy là quá cứng
nhắc. Vương Đình Chi kể: ông có quen biết một nhà thiết kế quảng cáo có địa vị
khá, cung mệnh là hai sao “Tham lang Liêm trinh” tọa thủ, nếu nói phóng đãng,
tính chất cũng chính xác, bởi vì người này “có máu” nghệ thuật, đã từng phiêu
bạt khắp nơi, nhưng sự nghiệp lại thành tựu.
Cho nên đặc tính
của một đời người tuyệt đối không thể dùng hai chữ “phóng đãng” để khái quát.
Đây là do xã hội cổ đại khác với xã hội ngày nay. Thời cổ, những người thích
phiêu bạt giang hồ, dù có tài năng cũng khó phát huy, bởi vì xã hội ngày xưa bảo
thủ, không ai dám làm “lãng tử”, lại không có nghề nghiệp nào tạo cơ hội cho
người ta phát huy tài năng nghệ thuật. Nhưng xã hội ngày nay đã khác, có nghề
thiết kế quảng cáo để phát triển, đo đó biến thành không phải là “phóng
đãng”.
Năm xưa, Vương
Đình Chi học Đẩu Số với thầy là Huệ Lão, Huệ Lão đã chỉ điểm cho Vương Đình Chi
một điều rất hay, ông nói: “Theo kinh nghiệp luận đoán của thầy trong những năm
gần đây, nữ mệnh có Phá Quân hóa Lộc ở cung mệnh, dường như đều có khuynh hướng
giải phẫu thẩm mỹ”. Đương nhiên thời cổ đại không có giải phẫu thẩm mỹ, vì vậy
Huệ Lão chỉ nói nhẹ nhàng một câu, mà đã gợi mở rất lớn cho Vương Đình Chi. Sau
nhiều năm nghiên cứu vô số mệnh bàn, ông cũng phát hiện ra một số tính chất mới
của các tinh hệ.
Năm xưa, Huệ lão
rất tán dương hai vị Đẩu Số gia, một vị là Lục Bân Triệu, từng mở lớp dạy Đẩu
Số, trước tác Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa , có tặng cho Huệ lão
một bộ, Vương Đình Chi lúc đó có chép lại. Một vị khác là Bắc phái cao thủ
Trương Khai Quyền, với bộ Tử Vi Đẩu Số nghiên cứu , tác phẩm
của tiên sinh vào thập niên 50 của thế kỷ trước đã có tác dụng mở đường. Phương
pháp đoán mệnh của hai vị danh gia đương nhiên đều có sắc thái đặc biệt, họ
không giữ bí mật mà công khai sở học, là tài liệu tốt để nghiên cứu Đẩu
Số.
Những điều Huệ
lão truyền lại cho Vương Đình Chi, có nhiều chỗ khác với Lục Bân Triệu và Trương
Khai Quyền. Như Thái âm ở cung Tai Ách, Lục tiên sinh cho rằng chủ về bệnh tiêu
chảy kiết lị; còn Huệ lão thì cho rằng chủ về táo bón, hoàn toàn tương phản. Huệ
lão từng bảo Vương Đình Chi sưu tập tư liệu để nghiên cứu thêm xem
sao.
Do đó có thể
thấy, phong cách của bậc danh sư là không khiến cho đệ tử phải sùng bái điều
mình bí truyền, như vậy mới khiến cho Tử Vi Đẩu Số phát triển theo hoàn cảnh xã
hội.
2-
Quan sát toàn diện 12 cung
Kỹ thuật luận
đoán thực ra rất đơn giản, trước tiên phải vượt ra khỏi khái niệm “tam phương tứ
chính”, sau đó phải lưu ý phản ứng giữa các tinh hệ với nhau, tinh hệ A gặp phải
tinh hệ B sẽ xảy ra một số tình hình đặc thù nào đó, đây là căn cứ dùng để luận
đoán.
Thông thường khi
đối mặt với một tinh bàn, người mới học hay mắc một bệnh, đó là xem trọng việc
luận đoán “tam phương tứ chính” của cung mệnh, cung Thiên Di, cung Tài bạch,
cung Quan lộc một cách thái quá, mà không quan sát tinh bàn một cách tổng hợp.
Bởi vì con người ngày nay phần lớn đều có tâm lý chú trọng vấn đề tiền tài và sự
nghiệp, xem đó là ưu tiên hàng đầu.
Phương pháp luận
đoán như vậy rất dễ rời vào luận đoán vụn vặt. Vương Đình Chi cho bết kinh
nghiệm rằng, cần phải tuần tự theo các bước sau đây để quan sát tinh bàn, mới có
thể lý giải mệnh vận của mệnh bàn một cách toàn
diện.
3-
Các bước luận đoán mệnh bàn
Học Tử Vi Đẩu Số, thực ra chỉ cần nắm vững 3
điều:
3.1- Phương pháp
an sao
3.2- Tính chất cơ bản của tinh hệ
3.3- Căn
cứ vào tinh bàn như thế nào để đoán vận trình.
Tiết này sẽ bàn
về điểm sau cùng, mục đích để tạo hứng thú cho người mới học luận đoán, bởi vì
rất nhiều người sau khi đọc rất nhiều sách Đẩu Số vẫn không luận đoán được tinh
bàn.
3.1- Trước tiên xem cung Phụ Mẫu, rồi xem cung Điền
trạch
Từ cung Phụ Mẫu
và cung Điền Trạch, có thể luận đoán xuất thân của đương số, và mức độ được
hưởng sự che trở của cha mẹ. Như vậy, đến khi quan sát cung mệnh, mới có thể
quyết định đương số thích nghi với vận thế sáng lập sự nghiệp “tay trắng làm
nên”, hay là thích nghi với vận thế giữ gìn, bảo thủ cái đã
có.
Điểm này rất
trọng yếu, bởi vì, giả dụ một người có cung Phụ Mẫu và cung Điền trạch đều tốt,
nhưng khi trong vận bàn lại hiện rõ vận trình “tay trắng làm nên”, điều này
chứng minh gia đình của đương số rất có thể xảy ra một lần suy sụp. Ngược lại
cung Phụ mẫu và cung Điền trạch đều xấu, liên tiếp hai ba vận trình đều có tính
bảo thủ, không có sự đột phá, thì rất khó luận đoán đương số có cơ hội tốt để
xoay chuyển hoàn cảnh.
3.2- Đồng thời quan sát cung Mệnh và cung Phúc
đức
Thông thường sao
hiển thị ở “tam phương tứ chính” của cung Mệnh, là vận trình khá thực chất, như
hưởng thụ vật chất, tài phú nhiều ít, sự nghiệp thuận lợi hay trở ngại. Còn sự
hiển thị ở “tam phương tứ chính” của cung Phúc đức là hưởng thụ về hoạt động
tinh thần và tư tưởng của một người.
Nếu tính chất
của hai cung vị đều tốt, người này đương nhiên chẳng có gì bất lợi, hơn nữa còn
có thể luận nhất định đương số có một gia đình tốt. Trái lại, nếu cung Mệnh tốt,
còn cung Phúc đức lại khá tệ, như vậy cần phải chú ý hôn nhân của đương số có
thể không như ý, hay có khả năng đương số chỉ dựa vào may mắn mà giầu có, nên sự
hưởng thụ tinh thần của đương số chẳng cao thượng, hoặc cảnh ngộ của đương số
tuy khá tốt, nhưng bị bệnh tật đeo đẳng.
3.3- Căn cứ vào sự quan sát hai hạng mục trên để tìm ra cung nào có
điểm đặc biệt đáng chú ý
Nếu nghi ngờ
đương số hôn nhân bất lợi, thì cần phải kiểm tra cung Phu Thê, nghi ngờ đương số
mắc bệnh mãn tính khó khỏi thì cần phải kiểm tra cung Tai Ách, nhất định phải
tìm ra một số tinh hệ từ tinh bàn, đủ để giải thích tính chất phối hợp của cung
Mệnh và cung Phúc đức, sau đó mới có thể đưa ra luận
đoán.
Xin đưa ra một
ví dụ thực tế:
– Nữ mệnh, cung mệnh
Thiên cơ Thái âm, trong đó Thiên cơ hóa Khoa, Thái âm hóa Lộc tại cung
Thân
– Hội Thiên đồng hóa Quyền ở cung Tài bạch tại Thìn, là “Hóa Lộc
Hóa Khoa Hóa Quyền hội”, trong Đẩu Số là một kết cấu tốt.
– Cung Phúc có
Cự môn hóa Kị, hội hợp với Phu thê gặp Hồng Loan, Hàm trì, đối cung lại gặp
Thiên diêu (tức cung Tài)
– Kết cấu tinh hệ này, biểu thị khả năng do
sinh hoạt hôn nhân gây nên sự đau khổ tinh thần, vì vậy cần phải kiểm tra tổ hợp
tinh hệ ở cung Phu Thê.
– Thái dương Lộc tồn tọa thủ cung Phu ở Ngọ,
chồng chẳng nghèo, nhưng hội Cự môn hóa Kị ở cung Phúc tại Tuất, xấu nhất còn
hội hợp Thiên lương, Thiên hình, thêm sao Hỏa tinh ở đối cung (tức cung Quan ở
Tý), tổ hợp tinh hệ này biểu thị không có duyên vợ chồng
– Nhưng không
có duyên vợ chồng có mấy loại tính chất. Ví dụ như Phu và Thê không cùng chí
hướng, gặp nhau ít mà xa nhau nhiều, chồng có tình nhân bên ngoài, chồng mắc
nhiều bệnh, .v.v… Muốn quyết định thuộc loại tính chất nào, chỉ xem 12 cung
của mệnh bàn, thì không có cách nào giải quyết được, mà càn phải xem Đại vận và
Lưu niên.
3.4- Căn cứ tình hình của các cung để luận đoán vận
hạn
Xem xét vận thế
của Đại hạn và Lưu niên, thường thường có thể bổ sung cho luận đoán, và có cái
nhìn tinh bàn một cách tổng hợp. Như trong ví dụ trên, chỉ cần xem xét mỗi một
Đại hạn của cung Phu Thê, là có thể đưa ra luận đoán chuẩn
xác.
Đại hạn Canh
Tuất từ 25 – 34 tuổi, cung Tuất biến thành cung Mệnh của Đại hạn, cho nên cung
Mậu Thân (vốn là cung mệnh của nguyên cục, tức thiên bàn) biến thành cung Phu
Thê của Đại hạn.
Sao Lộc tồn của
Đại hạn bay vào cung Phu Thê (tức lưu Lộc, bởi vì Lộc tồn của Đại hạn Canh Tuất
ở cung Thân), nhưng đồng thời cũng có lưu Kình và lưu Đà của Đại vận giáp cung
(gọi tắt là vận Kình vận Đà).
Cung Phu thê của
nguyên cục có hiện tượng giáp Kình giáp Đà, thấy khéo trùng hợp, nhưng khéo
trùng hợp như vậy tất phải có lý lẽ của nó. Vả lại, cung Phu thê của Đại vận còn
hội hợp Thiên đồng hóa Kị, do đó có thể khẳng định, trong Đại hạn này vợ chồng
tất có vấn đề.
Xem xét tiếp,
thì phát hiện vào năm Quý Hợi 1983, cung Phu thê của Lưu niên có vấn đề lớn.
Cung Phu thê của Lưu niên ở cung Dậu, “Tử vi Tham lang” tọa thủ, nhưng Tham lang
hóa Kị vào năm Quý, đồng thời có lưu Kình của Đại hạn đồng cung. Sát diệu hội
hợp Đà la của cung Tị, lưu Kình của cung Sửu, cho tới các sao Vũ khúc, Phá quân,
Liêm trinh, Thất sát. Kết cấu tinh hệ kiểu này, có tính chất là “không có niềm
vui gia đình”, xấu nhất tức là “lưu Kình của Lưu niên” xung động “lưu Kình của
Đại hạn”, đồng thời xung khởi Hóa Kị của tinh hệ “Tử vi Tham
lang”.
Do đó luận đoán
sơ bộ là: sinh hoạt vợ chồng của người này hoàn toàn không hòa hợp. Sau khi hỏi
thăm thì biết năm Quý Hợi kết hôn, sau khi kết hôn một tháng thì phát hiện người
chồng bị mắc chứng rối loạn khả năng tính dục.
Kiểm tra cung
Tai Ách của người chồng, thì thấy “Thiên cơ Thái âm” tọa thủ, có Linh tinh Đà la
đồng cung, hội hợp Thiên lương và Xăn xương hóa Kị, đồng thời “tam phương tứ
chính” lại có các sao Hàm trì, Hồng loan, Đại hao, còn có thêm Âm sát. Tổ hợp
tinh hệ dạng này, theo kinh nghiệm từ Vương Đình Chi, là thuộc chứng quá túng
dục mà dẫn đến âm phận hư tổn. Có thể luận đoán, thời kỳ trước hôn nhân, người
chồng này đã rất trác táng. Vì vậy, Vương Đình Chi đề nghị người chồng gặp một
vị lương y trứ danh để chữa trị, dưỡng âm bồi nguyên khí. Kết quả đầu năm Ất Sửu
1985, đôi vợ chồng nọ tìm đến Vương Đình Chi để cám ơn đã cữu vãn cuộc hôn nhân
sắp đổ vỡ của họ.
3.5-
Kỹ thuật quan sát tình hình Cát Hung của các
cung
Dựa vào các bước
quan sát đã thuật ở trên, thông qua một ví dụ thực tế, tin rằng bạn đọc đã có
cái nhìn sơ lược về phép tắc luận đoán tinh bàn, nhưng còn cần phải thành thục
một số kỹ thuật.
Dưới đây, tôi
xin trình bầy các kỹ thuật quan sát để bạn đọc tham
khảo
–
Mượn sao an cung
Khi một cung vị không có chính diệu, cần phải
mượn sao của đối cung nhập vào bản cung, gọi là “mượn sao an cung”. Về điểm này,
thông thường các sách Đẩu Số chỉ đề cập sơ qua, nhưng có hai then chốt mà lâu
nay không có ai bàn tới.
Khi “mượn sao an
cung”, ắt cần phải mượn toàn bộ tinh hệ của đối cung để đưa vào bản cung (vô
chính diệu), mà không chỉ đưa chính diệu để an cung mà thôi, đây là then chốt
thứ nhất.
Ví dụ tinh bàn
của một Nam mệnh: cung Phu Thê ở Thìn, vì vô chính diệu có Tả phụ Đà la đồng độ,
nên phải mượn tinh hệ của đối cung, đó là cung Quan có Cơ Lương, Hỏa tinh, Hữu
bật đồng độ tại cung Tuất, sau khi “mượn sao an cung”, kết cấu của cung Phu Thê
biến thành Thiên lương, Thiên cơ hóa Kị, Hỏa tinh, Đà la, Tả phụ, Hữu
bật.
Nhưng điểm này
có quan hệ không lớn, bởi vì tính chất tinh hệ của đối cung vốn đã đủ gây ảnh
hưởng đến bản cung. Tức dù không “mượn sao an cung”, tính chất tinh hệ của bản
cung và đối cung hợp chiếu, đại khái cũng giống tính chất sau khi “mượn sao an
cung”. Nhưng có một then chốt khác, đó là khiến toàn bộ cung Phu Thê phát sinh
biến hóa.
Khi tìm “tam
phương tứ chính” của một cung vị, nếu cung vị nào đó không có chính diệu tọa
thủ, thì cung vị này vẫn phải “mượn sao an cung”, sau đó mới hội hợp với bản
cung. Đây là then chốt thứ hai. Nhiều người sau khi đọc rất nhiều sách Đẩu Số,
vẫn không cách nào luận chuẩn xác, là do không biết then chốt
này.
Vẫn từ ví dụ
trên, cung Phu thê ở cung Thìn, hội hợp với hai cung Thân – Tý, lại xung hợp với
đối cung (Tuất), cấu tạo thành “tam phương tứ chính”. Hai cung Thân Tuất đều có
chính diệu, không xảy ra vấn đề gì. Nhưng cung Tý chỉ có một sao Văn Khúc, không
thuộc nhóm chính diệu, do đó cần phải nhìn đến đối cung của cung Tý là cung Ngọ
để “mượn sao an cung”, mượn Thiên đồng, Thái âm, Linh tinh, Kình
dương.
Tới đây, toàn bộ
tinh hệ của cung Phu Thê biến thành cách: “tứ sát kèm sát“, tức là Hỏa
tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, lại có thêm tổ hợp chính diệu Thiên cơ (hóa
Kị), Thiên lương, Thiên đồng Thái âm, Thái dương (hóa Khoa), Cự môn. Có thể luận
đoán sinh hoạt hôn nhân không được tốt đẹp, tuy không nhất định là phải ly hôn,
nhưng có khả năng dị mộng đồng sàng. Thái dương hóa Khoa còn có thêm Cự môn, chủ
về vợ chồng giữ gìn thể diện, cho nên dù có oán trách chồng, nhất định cũng
không nói lời chia tay.
Từ ví dụ trên có
thể thấy, “mượn sao an cung” là một đại pháp môn trong phép luận đoán Đẩu Số.
Nhất là hai then chốt kể trên, điều mà xưa nay cổ nhân xem là “bí pháp”, không
dễ gì truyền ra ngoài.
Các
sao của Thiên bàn và Nhân bàn ảnh hưởng lẫn
nhau
Cần chú ý, tính
chất của một nhóm tinh hệ, thường thường có thể bị tính chất của một nhóm tinh
hệ khác phá hoại, đây gọi là “tinh diệu hỗ hiệp”.
Về điểm này có
thể đơn cử một ví dụ thực tế để chứng minh:
Nữ sinh trung
học, sinh năm Giáp Tý 1994 tham dự cuộc thi Trung học, mệnh tại Tý có tinh hệ
“Thiên phủ Vũ khúc”, Linh tinh, Hàm trì, Đại hao đồng độ tọa thủ, hiện đang ở
Đại vận Quý Mão.
Chiếu theo Lưu
niên của năm Giáp Tý, cung mệnh ở Tý có “Thiên Phủ Vũ khúc”, hơn nữa còn có Vũ
khúc hóa Khoa năm Giáp, ở hai cung Thân và Ngọ, hội hợp Tả phụ, Hữu bật, Văn
xương, Văn khúc, lại có thêm Lộc tồn của cung Ngọ trùng điệp với lưu Lộc của Đại
vận ở bản cung. Đây là cách Lộc tinh và Văn tinh hội hợp, tạo thành cách là
“Lộc Văn củng mệnh“. Theo phép luận đoán thông thường, cuộc thi năm nay
sẽ không thất bại.
Ở đây cần chú ý
“cung Mệnh của lưu niên” (cung Tý), có hai tạp diệu Hàm Trì và Đại Hao, chúng
cùng đồng độ ở một cung, sức mạnh khá lớn, chủ về tình cảm nam nữ mang lại tình
cảm không tốt.
Lúc này, cần
phải kiểm tra “cung Phúc đức của lưu niên” của cô gái này (tức nguyên tắc đồng
thời xem xét cung Mệnh và cung Phúc đức). Cung này ở cung Dần có Tham Lang độc
tọa, nhưng đang ở Đại hạn can Quý nên Tham lang hóa Kị; đối nhau với Liêm trinh,
cũng đối nhau xa xa với Hồng loan (cung Thân).
Lại thấy cung
Dần hội hợp với các sao phụ tá ở hai cung Thân và Ngọ, là Tả phụ, Hữu bật, Văn
xương, Văn khúc, có thể nói là “đào hoa” tụ về cung Phúc
đức.
Trong tình hình
này, Vương Đình Chi luận đoán, cô nữ sinh này tuy thành tích học tập không tệ,
nhưng đáng tiếc là năm đó đã rơi vào tình huống yêu đương, vì vậy ảnh hưởng đến
thành tích thi cử. Cô nữ sinh này cũng vì thi cử thất bại nên mới tìm đến Vương
Đình Chi.
Thông qua thí dụ
này có thể biết, chỉ vì “cung mệnh của lưu niên” xuất hiện các tạp diệu Hàm trì,
Đại hao, khiến cho tính chất của tinh hệ “Lộc Văn củng mệnh” phát sinh
biến hóa. Đây là một ví dụ tốt về nguyên tắc: “các sao ảnh hưởng lẫn
nhau“.
“Sao
đôi” xuất hiện thì sức mạnh tăng thêm
Khi luận đoán
Đẩu Số, một nguyên tắc quan trọng mà ít người biết, đó là “Kiến
tinh tầm ngẫu“. Đây là kỹ thuật luận đoán bí truyền của phái Trung Châu,
mà Vương Đình Chi được truyền thừa.
Gọi là “Kiến
tinh tầm ngẫu” (gặp sao thì tìm đôi), bởi vì trong Đẩu Số có nhiều cặp “sao
đôi”, khi gặp một mình thì sức mạnh hữu hạn, nhưng khi xuất hiện thành đôi, thì
sức mạnh được tăng cường. Về điều này, thực ra cổ nhân cũng đã tiết lộ đôi
chút.
Ví dụ cổ nhân
đưa ra nguyên tắc: “phùng Phủ khán Tướng” (gặp Thiên phủ thì phải xem Thiên
tướng), “phùng Tướng khán Phủ” (gặp Thiên tướng thì phải xem Thiên phủ), bởi vì
Thiên Phủ và Thiên Tướng là cặp “sao đôi”. Nhưng cổ nhân thích giữ “bí mật”, cho
nên thường thường chỉ nói sơ qua mà thôi.
Liệt kê một số
cặp “sao đôi” để tham khảo:
+ Chính
diệu:
– Thiên phủ và Thiên tướng
– Thái Dương và Thái
Âm
– Thiên Đồng và Thiên Lương
– Liêm Trinh và Tham
Lang
+ Phụ diệu:
– Tử Phụ và Hữu
Bật
– Thiên Khôi và Thiên Việt
+ Tá
diệu:
– Văn Xương và Văn Khúc
– Lộc Tôn và Thiên
Mã
+ Tạp diệu:
– Hồng Loan và Thiên
Hỷ
– Hàm trì và Đạo hao
– Long Trì và Phượng Các
– Ân
Quang và Thiên Quý
– Tam Thai và Bát Tọa
– Cô Thần và Quả
Tú
– Thiên Khốc và Thiên Hư
– Thiên Phúc và Thiên Thọ
–
Đài Phụ và Phong Cáo.
Nhưng, như thế
nào mới gọi là “sao đôi” xuất hiện ? Sức mạnh lớn nhỏ của nó có thể dựa vào
nguyên tắc dưới đây để định.
– Loại tình
huống có sức mạnh nhất là “sao đôi đồng cung”. Ví dụ như tình huống “Thái dương
Thái âm” đồng cung tại Sửu, cùng thủ một cung, kết cấu tinh hệ kiểu này có sức
mạnh tuyệt đối không thể xem thường.
– Kế đến, loại
tình huống có sức mạnh khá nặng là “sao đôi chiếu nhau”, ví dụ ở hai cung Thìn
và Tuất, thì Thái dương và Thái âm chiếu vào nhau, sự phát huy sức mạnh lẫn nhau
của chúng cũng không thể xem thường.
– Tiếp đến nữa
là tình huống hội hợp “Song phi hồ điệp thức“, tức là “sao đôi” chia ra ở
hai bên “hợp cung”, ví dụ lấy cung Ngọ làm bản cung, đi nghịch cách 3 cung đến
cung Dần gặp Thiên Khốc, đi thuận cách 3 cung đến cung Tuất gặp Thiên Hư, là cặp
“sao đôi” Khốc Hư lấy tư cách “song phi hồ điệp” hội hợp với cung Ngọ (là bản
cung), đối với cung Ngọ phải chịu sức ảnh hưởng cũng nặng. Nhưng đối với hai
cung Dần Tuất mà nói, sự hội hợp của Thiên khốc và Thiên hư so với cung Ngọ thì
không có gì quan trọng, bởi vì chúng không thuộc loại hội hợp “Song phi hồ
điệp thức“.
– Cuối cùng là
hội hợp “Thiên tà thức” (kiểu đối lệch). Ví dụ lấy cung Tý làm “bản
cung”, tương hội với Văn khúc ở cung Thân, và Văn xương ở đối cung (cung Ngọ),
đối với cung Tý là “bản cung” mà nói, hai cung vị Thân và Ngọ có vị trí đối nhau
không chuẩn, do đó hình thức xuất hiện “sao đôi” kiểu này có sức mạnh hơi
kém.
Tóm lại, sức
mạnh của các tình huống xuất hiện “sao đôi” theo thứ tự giảm dần như
sau:
Đồng cung =>
Đối nhau .=> Tam hợp hội chiếu => Một ở tam hợp một ở đối cung hội chiếu
=> Các sao tương hội ở tam hợp cung (như Thiên khốc và Thiên hư ở hai cung
Dần và Tuất).
Như đã nói,
nguyên tắc vừa thuật được người xưa xem là “bí truyền”. Cho nên dựa theo sách cổ
để học Đẩu Số, thường thường sẽ biết được sự hội hợp một số sao có tác dụng rất
mạnh, nhưng có lúc lại thấy sự hội hợp của chúng không hiển thị tác dụng mạnh
như vậy. Đây là vì không biết các hình thức hội hợp vừa kể trên để tính toán sức
mạnh hơn kém của chúng.
“Tá cung an
sao“, “Tinh diệu hỗ thiệp“, “Kiến tinh tầm ngẫu“, là Vương
Đình Chi được sư phụ bí truyền, đây là ba kỹ thuật trọng yếu, dùng để luận đoán
tinh bàn của phái Trung Châu. Tiền bối của phái Trung Châu là Lục Bân Triệu khi
soạn bộ Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa cũng không chịu tiết lộ những
bí truyền này.
ĐỊA BÀN
Địa bàn tổng
cộng có 14 chính diệu. Về cách an, toàn bộ giống như Thiên bàn, trong đó thì
phép an sao Tử Vi có khác.
Tử vi của “Thiên
bàn” là lấy thiên can của Năm sinh và ngũ hành Dần thủ, để tìm Nạp âm của cung
mệnh, rồi lấy Nạp âm ngũ hành để tra Cục số, thì xác định được cung vị của Tử
Vi.
Tử Vi của “Địa
bàn” cũng vậy, ta lấy thiên can của Năm sinh, và ngũ hành Dần thủ, nhưng không
phải để tìm ngũ hành nạp âm của cung Mệnh, mà là tìm ngũ hành Nạp âm của cung
Thân. Do đó “Địa bàn” lấy cung Thân làm chủ. Sau đó tra được nạp âm của cung
Thân, chiếu theo phương pháp của “Thiên bàn”, căn cứ ngũ hành Cục số, để tìm
cung vị Tử vi.
Sau khi đã biết
“Địa bàn”, ta rất dễ xem xét được căn nguyên của thiên tính và bản chất Tiên
thiên của mệnh tạo. Nhờ vậy, ta sẽ hiểu tại sao rất nhiều người có địa vị cao
quý trong xã hội, nhưng họ lại có những hành vi nhỏ mọn rất là hạ lưu. Đây là vì
các sao của cung mệnh tại “Địa bàn” rất tốt, nhưng các sao của cung mệnh ở
“Thiên bàn” tiên thiên lại không cao quý cho lắm.
Trái lại, có rất
nhiều người nghèo nàn, hoặc không được hưởng một sự giáo dục tốt, nhưng họ lại
có tư tưởng rất thanh cao, và hành vi rất đáng khâm phục. Đây là do các sao ở
cung mệnh ở “Thiên bàn” phần nhiều là sao xấu, nhưng ở “Địa bàn” lại có nhiều
sao rất tốt cung hội chiếu.
Các sao của “Địa
bàn” cũng vậy, cần phải chú ý xem chúng nhập miếu hay lạc hãm, sinh vương hay tử
mộ, để phân biệt sự cao thấp của chúng.
Xin đơn cử ví
dụ, người sinh giờ Tị, ngày 17 tháng 5, năm Quý Sửu, Vương Đình chi tôi chú giải
như sau: (sách Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa bổ chú
)
Lục tiên sinh
chủ trương dùng “Địa bàn” để tìm “căn nguyên tiên thiên”. Đây là điểm rất đáng
chú ý, không phải là phát biểu của một người hiểu biết nửa vời. Nhưng dùng “Địa
bàn” để tính “giao thế thời” thì Lục
tiên sinh hoàn toàn không có nhắc đến.
Theo Vương Đình
Chi, thì mỗi giờ sinh của một người có thể chia thành “tam bàn” Thiên – Địa –
Nhân. Điều này, cần phải căn cứ vào Tổ đức để phân biệt, chứ không nhất định
giới hạn trong “giao thế thời“.
Liên quan đến
phương pháp an sao ở “Địa bàn” và “Nhân bàn”, điều mà xưa nay vẫn được coi là
“bí truyền”, thực ra rất là đơn giản.
Trước tiên, cứ
theo phương pháp an sao của mệnh bàn, mệnh bàn này tức là “Thiên bàn”, rồi lấy
cung Thân của “Thiên bàn” đổi thành cung mệnh, dùng can chi của cung Thân để
định Cục và Ngũ hành, an Tử vi và Thiên phủ, như vậy là được thêm một bàn khác,
gọi là “Địa bàn”.
Nếu không dùng
cung Thân, thì lấy cung Phúc Đức của “Thiên bàn” đổi thành cung mệnh, rồi dùng
can chi của cung Phúc Đức để định cục ngũ hành, sau đó an Tử vi và Thiên phủ,
như vậy là được thêm một mệnh bàn khác nữa, gọi là “Nhân bàn”, nói một cách
chính xác thì đây là “nhân bàn của địa bàn”.
Nếu cung Mệnh và
cung Thân đồng cung, thì “Thiên bàn” và “Địa bàn” hoàn toàn giống nhau. Nếu cung
Thân và cung Phúc đức đồng cung, thì “địa bàn” và “nhân bàn của địa bàn” hoàn
toàn giống nhau.
Chú ý phân biệt,
“Thiên bàn” – “Địa bàn” – “Nhân bàn”, chỉ có cung Mệnh là khác cung độ, trong đó
14 chính diệu được bài bố khác nhau, còn các sao khác ở các cung viên đều không
thay đổi.
NHÂN BÀN
1-
Cung phi động và tác dụng giao thoa của lưu diệu
Nguyên cứu Tử Vi
Đẩu Số, nếu chỉ quan sát các sao ở 12 cung “Thiên bàn”, thì chỉ có thể luận đoán
cách cục cơ bản của mệnh tạo (tức khuynh hương Tiên thiên). Nhưng người có cách
cục tốt, chưa chắc Năm hạn nào cũng tốt ; người có cách cục xấu, chưa chắc Năm
hạn nào cung xấu. Do đó cần phải mang tinh bàn “phi động” ra để nghiên cứu tỷ
mỉ, xem vận thế của Mệnh tạo trong mỗi một Năm hạn. Đây mới là chỗ tinh hoa của
Đẩu Số. (Thuyết “phi động” người đầu tiên nói đến là Quan Vân Chủ Nhân trong Tử Vi Đẩu Số tuyên vi).
Đẩu số giống với
khoa Tử Bình, cứ 10 năm được coi là một Đại hạn. Đại hạn khởi đầu từ cung mệnh,
dương nam âm nữ đi thuận, âm nam dương nữ đi ngược, đếm đến cung vị nào thì đó
là cung Mệnh đại hạn 10 năm. Rồi cũng khởi đầu từ cung mệnh của Đại hạn đếm theo
chiều nghịch (của chiều kim đồng hồ), bày lần lượt 11 cung còn lại, mà không cần
chú ý đến tên gọi gốc của “Thiên bàn”.
Giả thiết mệnh
tạo là Dương nam, thuộc mộc tam cục, Mệnh lập tại Dần, xét Đại hạn Mậu Thìn 23 –
32 tuổi, cung mệnh của Đại hạn ở cung Mậu Thìn, tức là cung Phúc đức của Thiên
bàn tại Thìn, thế là từ cung Mậu Thìn, bầy bố theo chiều
nghịch
– Cung Đinh Mão
là cung Huynh đệ của Đại hạn
– Cung Bính Dần là cung Phu thê của
Đại hạn
– Cung Ất Sửu là cung Tử Tức của Đại
hạn
…v.v…
– Cho đến cung Kỷ Tị là cung Phụ Mẫu của
Đại hạn
Tới đây, có thể
căn cứ vào tổ hợp sao của các cung, tham khảo những điều đã luận thuật ở chương
trước để luận đoán, thì có thể biết mệnh tạo trong đại hạn 23 – 32 tuổi sẽ gặp
các tình huống cát hung thế nào.
Tinh bàn gốc đã
bài bố chỉ là “Thiên bàn”, hoặc Địa bàn cố định bất động, lúc muốn luận đoán 12
cung của Đại hạn, còn phải thêm vào các “Lưu diệu” thuộc đại hạn đó. Lưu diệu
được dùng trong phái Trung Châu có mấy loại như dưới
đây:
1)- Lưu diệu dựa vào thiên can của cung mệnh (đại hạn) để an: lưu Hóa Lộc, lưu Hóa Quyền, lưu Hóa Khoa, lưu Hóa Kị, lưu Lộc (lộc
tồn), lưu Dương (kình dương), lưu Đà (đà la),
lưu Khôi (thiên khôi), lưu Việt (thiên việt),
lưu Xương (xăn xương), lưu Khúc (văn
khúc)
2)- Lưu diệu dựa vào địa chi của cung mệnh (đại hạn) để an: lưu Mã (thiên mã)
Theo ví dụ
trên:
– Cung mệnh của Đại hạn từ 23 – 32 tuổi là ở cung Mậu Thìn,
cho nên can Mậu là can của cung mệnh Đại hạn
– Vì vậy trong Đại
hạn này, căn cứ vào can Mậu, thì lưu hóa Lộc là Tham Lang, lưu hóa Quyền là Thái
Âm, lưu hóa Khoa là Thái Dương (??? kiểm), lưu hóa Kị là Thiên Cơ, lưu Lộc ở
cung Tị, lưu Dương ở cung Ngọ, lưu Đà ở cung Thìn.
– Lại vì Thìn
là chi của cung mệnh Đại hạn, cho nên lưu Mã ở cung
Dần.
Người mới nghiên
cứu Đẩu Số, tốt nhất nên điền các “lưu diệu” vào một tinh bàn mới (Nhân bàn),
còn đối với người đã thuộc phương pháp an sao, thì các lưu diệu ở đâu chỉ nhìn
một cái thì biết liền, không cần điền vào tinh bàn. Nhất là lúc luận đoán “Lưu
niên”, “Lưu nguyệt”, “Lưu nhật”, giả dụ như điền hết các Lưu diệu vào thì cả
tinh bàn chi chít toàn sao, sẽ làm rối mắt, đồng thời sẽ làm ảnh hưởng đế sự suy
nghĩ tính toán. Do đó thuộc lòng phương pháp an sao là rất quan trọng. Nếu không
thì nên lập nhiều tinh bàn – tức là nhân bàn của từng thứ
loại.
Khi luận đoán
Lưu niên – Lưu nguyệt – Lưu nhật, thì có một nguyên tắc cần phải biết như
sau:
1) Phàm có các Lưu diệu thì lấy Lưu diệu làm chủ, các sao ở mệnh
bàn gốc (thiên bàn) không xung thì không sinh ra tác dụng (xin nhắc lại là nếu
không xung thì không sinh ra tác dụng). Ví dụ như, tinh bàn gốc có Lộc tồn ở
cung Tị, lưu Lộc ở cung Thân, cả hai chẳng ở phương vị tam phương tứ chính. Hay
như Kinh dương gốc ở cung Ngọ, lưu Dương ở cung Dậu, còn Đà là gốc ở cung Thìn,
lưu Đà ở cung Mùi, cung không có quan hệ hội hợp với các sao ở tam phương tứ
chính. Cho nên khi luận đoán, Kình dương, Đà la, Lộc tồn của tinh bàn gốc tuy có
ảnh hưởng đối với 12 cung của Đại hạn, nhưng tác dụng không lớn. Trái lại, lưu
Lộc, lưu Dương, lưu Đà sẽ có tác dụng khá lớn.
2)- Nếu các sao ở trong tin bàn gốc, xung hội với “Lưu diệu” ở tam
phương tứ chính, thì sác mạnh tăng thêm, hai bên sẽ phát huy tác dụng. Ví dụ như
Lộc tồn nguyên cục ở tại cung Tị, lưu Lộc ở cung Hợi, nguyên cục “Lộc” và “Lưu
Lộc” hai bên đối xứng. Hoặc như Kình dương ở cung Ngọ mà lưu Dương ở cung Tí, Đà
la ở cung Thìn mà lưu Đà ở cung Tuất, như vậy nguyên cục và Lưu hai bên cũng đối
xứng, làm cho tổ hợp các sao mạnh thêm nhiều. Do đó khi luận đoán 12 cung của
Đại hạn, toàn bộ 6 sao trong đó 3 sao của nguyên cục và 3 sao “lưu” đều có tác
dụng.
3)- Các sao xung động với “lưu diệu” thì lấy trường hợp đồng cung
là mạnh nhất ; trường hợp tương xung ở đối cung là kế đó ; trường hợp hội chiếu
ở cung tam hợp là cuối cùng.
4)- Khi luận đoán Đại hạn, cần lưu ý quan hệ xung hội của tinh bàn
gốc với “lưu diệu” của Đại hạn.
Lúc luận đoán
Lưu niên, cần lưu ý quan hệ xung hội giữa lưu diệu của Đại hạn với lưu diệu của
lưu niên. Các sao tương đồng ở tinh bàn gốc có ảnh hưởng rất nhỏ, trừ trường hợp
có hai “lưu diệu” đồng thời xung động, nếu không, về căn bản không cần lưu ý.
Theo như ví dụ trên, lúc luận đoán Lưu niên, Lộc Tồn của tinh bàn gốc ở cung Tị,
không có Lộc Tồn của Đại hạn ở tam phương tứ chính hội chiếu, cũng không có Lộc
Tồn của Lưu niên hội chiếu. Nên khi luận đoán Lưu niên, có thể không cần lưu ý
gì thêm.
Nhưng Kình
dương, Đà là, Lộc tồn của đại hạn thì có Kình dương, Đà la, Lộc tồn của lưu niên
ở đối cung của chúng xung đột, sức mạnh của hai bên mạnh thêm. Do đó khi luận
đoán Lưu niên, chỉ cần xem xét Kình dương, Đà la, Lộc tồn của Đại hạn và Lưu
niên.
Như tình huống
ví dụ đã nói trên, Lộc tồn gốc tại cung Tị, Lộc tồn của đại hạn ở cung Tý, Lộc
tồn của Lưu niên ở cung Hợi, theo đó Lộc tồn gốc tuy không hội chiếu với Lộc tồn
của đại hạn ở cung Tý, nhưng xung hội với Lộc tồn của Lưu niên ở cung Hợi, do đó
vẫn có thể phát sinh sức mạnh.
Có điều, giả dụ
Lộc tồn của Đại hạn ở cung Dậu, như vậy lại tương hội với Lộc tồn gốc tại cung
Tị, thì sao Lộc Tồn này, do đồng thời có lưu Lộc của Đại hạn ở Dậu và lưu Lộc
của Lưu niên ở Hợi, tam phương hiệp trợ, nên sức mạnh của nó tuyệt đối không
được xem thường.
Lúc luận đoán
Lưu nguyệt, chỉ xem trọng lưu diệu của Lưu nguyệt và lưu diệu của Lưu niên. Chỉ
khi nào lưu diệu của Đại hạn cũng ở trong tình huống bị xung động mới có sức
mạnh, các sao tương đồng trong tinh bàn gốc (Thiên bàn), sức ảnh hưởng rất nhỏ,
có thể không cần lưu ý gì thêm.
Lúc luận đoán
Lưu nhật, sức mạnh lần lượt giảm thêm, thông thường lưu diệu của Đại hạn, và các
sao tương đồng của tinh bàn gốc có thể không cần lưu ý gì
thêm.
Các nguyên tắc
kể trên rất quan trọng, khi luận đoán Đại hạn, Lưu niên, Lưu nguyệt, Lưu nhật,
không được xem thường. Nếu không sẽ rối mắt, mà không cách nào luận đoán. Nhất
là khi luận đoán Lưu nhật, trong tinh bàn đầy dẫy lưu diệu, hơn nữa, nhất định
tình trạng Cát Hung sẽ lẫn lộn, nếu không biết nguyên tắc cái nào lấy cái nào
bỏ, thì sẽ không biết định tính chất Cát Hung của các sao hội hợp như thế
nào.
2)- Quy tắc
quan sát các sao của Đại hạn và Lưu niên
Sau khi biết rõ
các nguyên tắc thuật ở trên, và đã tìm hiểu về “tinh bàn phi động”, cho tới cách
nhập thêm lưu diệu, tốt nhất ta nên bắt đầu từ Đại hạn và lưu niên, để nghiên
cứu phương pháp luận đoán.
Để tiện cho việc
thuyết minh, tốt nhất tôi xin đơn cử một ví dụ thực
tế:
Mệnh bàn của một
phụ nữ, âm nữ, kim tứ cục, mệnh chủ Văn khúc, Thân chủ Thiên đồng, mệnh lập tại
cung Ất Mùi vô chính diệu gặp Tuần Không.
Điều đáng chú ý
là cung Phu ở Tị có Thiên cơ, Hữu bật, Thiên mã đồng độ, hội tinh hệ Thiên đồng,
Cự môn hóa Lộc ở cung Tân Sửu (Di), Thái âm ở cung Kỷ Hợi, cung Đinh Dậu vô
chính diệu (Phúc), vì vậy mượn Thiên lương, và Thái dương hóa Quyền ở cung Tân
Mão để “nhập cung an sao” cho cung Đinh Dậu. Các sao có tổ hợp dạng này thoạt
nhìn thấy rất tốt, Hóa Lộc, Hóa Quyền và Lộc tồn cùng chiếu, có vẻ như có thể
lấy được người chồng giầu sang.
Nhưng Thiên cơ ở
cung Phu vốn có tính chất hiếu động, trôi nổi, thêm vào đó còn có Thiên mã đồng
độ, tính chất hiếu động trôi nổi càng tăng. Cung Phu không ưa Tả phụ Hữu bật,
nhưng hai sao này lại đồng độ và hội hợp cung Phu. Ngoài ra, Thái dương và Thiên
lương, Thiên đồng và Cự môn đều chẳng phải là tổ hợp sao có lợi cho cung Phu,
cho nên cung Phu trong mệnh bàn có thể nói là cát – hung lẫn lộn. Cát hay Hung
thì ảnh hưởng của Đại vận là tất lớn.
Lúc vào Đại hạn
Bính Thân từ 14 – 23 tuổi, cung Phu ở cung Giáp Ngọ, thấy Tử vi xung chiếu Tham
lang ở Tý, gặp thêm các sao đào hoa Hồng loan, Thiên hỷ, Hàm trì, Thiên diêu,
nhưng đáng tiếc lại hội chiếu Văn xương hóa Kị ở cung Mậu Tuất, sao Kị này lại
xung khởi Liêm trinh hóa Kị của Đại hạn ở đồng cung ; sao Văn xương là sao lễ
nhạc, Liêm trinh là sao chủ về tình cảm, cùng lúc đều Hóa Kị, cho nên trong đại
hạn này, tìm không được người bạn đời ký tưởng là điều có thể thấy trước. Huống
hồ Kình dương và Linh tinh ở cung Mậu Tuất lại xung khởi lưu Dương của đại hạn
cung Giáp Ngọ, cho nên ắt sẽ có sóng gió, trắc trở về tình
cảm.
Đến đại hạn Đinh
Dậu từ 24 – 33 tuổi, cung Phu của đại hạn ở cung Ất Mùi, vô chính diệu, mượn
Thiên đồng và Cự môn ở đối cung để “nhập cung an sao” cho cung Mùi. Trong đại
hạn Đinh Dậu thì Cự môn hóa Kị, cùng với sao Hóa Lộc của nguyên cục tổ hợp thành
tinh hệ “Kị xung Lộc”, đồng thời có Thái âm hóa Lộc ở cung Kỷ Hợi, Thái dương
hóa Quyền ở cung Tân Mão hội chiếu. “Âm Dương Lộc Quyền” hội hợp, vì vậy đây là
vận trình kết hôn, nhưng có lưu Dương của đại hạn ở cung Ất Mùi và Cự môn hóa Kị
cùng thủ cung Phu của đại hạn, nên đã ngầm phục nguy cơ; thêm vào đó “Thái dương
Thiên lương” có Thiên nguyệt đồng độ, là tinh hệ chủ về bệnh mãn tính thuộc hệ
thần kinh, mà cung Kỷ Hợi lại có Địa kiếp, do đó cuộc tình duyên này thực tình
không dám khen ngợi, tâng bốc.
Năm Mậu Ngọ
1978, cung Mệnh của lưu niên và cung Phu của lưu niên cùng hội hợp Tham lang hóa
Lộc ở cung Canh Tý, lại thêm các sao “đào hoa” đồng độ, vì vậy chủ về “thành hôn
mà không có nghi lễ chính thức”. Tốt nhất ta xem tình huống cung Phu của lưu
niên (cung Nhâm Thìn) có lưu Đà đồng độ, xung hội với Đà là của mệnh bàn, cũng
chẳng thể khen.
Cho nên sau khi
kết hôn năm Kỷ Mùi 1979, vào năm Quý Hợi 1983 cung Phu của lưu niên mượn tổ hợp
“thái dương Thiên lương” và Thiên nguyệt ở cung Tân Mão, để “nhập cung an sao”
cho cung Đinh Dậu, bị Kình dương của lưu niên ở cung Tân Sửu hội chiếu, dẫn động
lưu Đà của đại hạn ở cung Quý Tị, thế là tình cảm vợ chồng đổ vỡ, nguyên nhân là
do chồng sử dụng ma túy (bệnh mãn tính thuộc hệ thần
kinh).
Lại xem cung
Phúc (Kỷ Hợi) của đại hạn Đinh Dậu, bị lưu Dương và lưu Đà của đại hạn hội
chiếu, ở tinh bàn gốc lại có Địa không, Địa kiếp (Kỷ Hợi), thêm vào đó lại xung
chiếu Thiên cơ, Thiên mã, Hữu bật từ cung Quý Tị, cho tới mượn phép “an sao nhập
cung” của cung Tân Sửu là tinh hệ “Thiên đồng Cự môn” cho cung Ất Mùi, và “Thái
dương Thiên lương”, đều là nhóm sao chủ về điều tiếng thị
phi.
Còn trùng hợp
một điều nữa là, cung mệnh của đại hạn Đinh Dậu cũng hội hợp với tinh hệ đồng
dạng, đây chính là tượng trưng cho tinh thần của mệnh tạo ở trong tình huống rất
bối rối khó xử.
Năm Giáp Tý
1984, “Vũ khúc Thiên tướng” ở cung Phúc (Canh Dần) bị Thái dương hóa Kị ở cung
Tân Mão và Kình dương của lưu niên, cùng với Cự môn hóa Kị ở cung Tân Sửu và Đà
la của lưu niên giáp cung. Đây là tổ hợp tam trùng “Hình Kị giáp ấn“,
“song Kị giáp“, “Dương Đà giáp“, mà còn là cách xấu “Linh Xương
Đà Vũ“. Vì vậy năm đó đã từng có ý không còn muốn sống, nhưng may mắn được
Lộc tồn của đại hạn ở cung Giáp Ngọ, nên không chết.
Từ phân tích ở
trên, thiết nghĩ bạn đọc đã có cái nhìn nhật định về phương pháp luận đoán các
sao của mệnh bàn.
Bây giờ ta xem
thêm một ví dụ khác, đồng thời nghiên cứu vài quy tắc về cách quan sát các
sao.
Nữ mệnh, âm nữ,
Mệnh chủ Tham lang, Thân chủ Hỏa linh, mệnh nguyên cục ở cung Giáp Tý có Tham
lang tọa thủ. Trong mệnh bàn, cung vị xấu nhất là cung Đinh Tị (tức cung Nô),
cung vị này có Kình dương và Đà la giáp cung, trong cung có Thiên cơ hóa Kị tọa
thủ, cấu tạo thành cách xấu “Kình Đà giáp Kị“, mà Thiên cơ lại có Hỏa
tinh đồng độ, cũng đồng dạng bị Kình Đà giáp cung, tính cứng rắn hình khắc, cũng
vì vậy mà mạnh thêm. Mở mệnh bàn ra, trước tiên nên tìm ra cung vị xấu nhất hoặc
tốt nhất, là quy tắc 1 của phép quan sát các
sao.
Có 3 cung vị bị
cung Đinh Tị gây ảnh hưởng, đó là Tân Dậu, Quý Hợi, Ất Sửu, trong đó có cung Tân
Dậu là xấu nhất, bởi vì nó đồng thời tương hội với Linh tinh của cung Ất Sửu,
tức là bị 2 sao Hỏa tinh và Linh tinh cùng chiếu xạ theo kiểu “song phi hồ
điệp“
Cung Tân Dậu là
cung mệnh của đại hạn từ 34 – 43 tuổi (Tử nữ). Sau khi tìm ra cung vị xấu nhất
hoặc tốt nhất, tiếp đến phải tìm ra “tam phương ức hiếp” mà nó bị ảnh hưởng, tức
là vì bị chúng ảnh hưởng mà biến thành cung xấu hay biến thành cung tốt, đây là quy tắc 2 của phép quan sát các
sao.
Do cung mệnh của
đại hạn có khuyết điểm, vì vậy cần tiếp tục tìm ra cung vị nào xấu hơn trong
đại hạn. Ta có thể lưu ý cung Bính Thìn (quan lộc), trong cung nguyên cục có
Thất sát và Đà la tọa thủ ; lúc vào đại hạn Tân Dậu thì Đà là của nguyên cục
tương xung với lưu Đà của đại hạn của cung Canh Thân (Tài bạch), do đó tính cứng
rắn hình khắc được phát động, hơn nữa còn đối diện với lưu Dương của đại hạn ở
cung Nhâm Tuất, tính cứng rắn hình khắc càng mạnh thêm. Cung Bính Thìn là cung
Tai Ách của đại hạn Tân Dậu, cho nên ta cần lưu ý xem trong hạn có vận xấu gì về
phương diện cung Tai Ách hay không.
Sau khi tìm ra
vận hạn tốt xấu, ta lại tìm cung vị tốt xấu của vận hạn này, để quyết định vận
hạn này tốt thế nào, xấu thế nào, là quy tắc 3 của phép quan sát
các sao.
Đến đây, ta quay
trở lại cung Đinh Tị (cung Nô) của nguyên cục được xem là xấu nhất, cung vị này
là cung mệnh của lưu niên Nhâm Tuất, có “Liêm trinh Thiên phủ” và Thiên hình
đồng độ, lại có lưu Dương của đại hạn và lưu Đà của lưu niên bay vào. Hai lưu
diệu này chia ra cùng hội chiếu với Kình dương và Đà la của mệnh bàn gốc, sức
mạnh hai bên mạnh thêm. Càng xấu hơn là, vào năm Nhâm Tuất có Vũ khúc hóa Kị ở
cung Giáp Dần đến hội chiếu; toàn bộ tinh hệ ở cung mệnh của lưu niên biểu thị
có tổn thương thuộc kim. Sau khi tìm ra cung vị xấu nhất của đại hạn, tiếp theo
là tìm lưu niên xấu, là quy tắc 4 của phép quan sát các
sao.
Rồi ta lại truy
tìm tiếp, xem năm Quý Hợi kế tiếp ở cung Tai Ách, là năm bị Văn xương lưu Hóa Kị
của cung Kỷ Mùi, và Thiên cơ hóa Kị của cung Đinh Tị hội chiếu. Cung Mậu Ngọ là
cung Tai Ách của lưu niên, có Tử vi và Kình dương đồng độ, Kình dương này bị
Kình dương của đại hạn xung động, hội hợp với “Liêm trinh Thiên phủ” và Thiên
hình của cung Nhâm Tuất, còn bị Tham lang hóa Kị của lưu niên tương xung, thêm
vào đó còn có Thiên Hư và Thiên Khốc đồng độ, lại hội Địa kiếp của cung Giáp
Dần. Cho nên có thể luận đoán, mệnh tạo vào năm Quý Hợi phải bị phẫu thuật. Sau
khi tìm ra sự kiện, tiếp tục truy xét của năm kế tiếp, là quy tắc 5
của phép quan sát các sao
Sau đây ta tiếp
tục phân tích một tinh bàn của nam mệnh làm ví dụ. Dương nam, Thủy nhị cục, Mệnh
chủ Tham lang, Thân chủ Hỏa tinh.
Mệnh bàn nguyên
cục:
– Cung mệnh lập tại cung Quý
Hợi, có Thiên cơ (Hóa Kị) Hỏa tinh, Thiên tài, Thiên nguyệt, Lâm quan tọa
thủ.
– Phụ mẫu lập tại cung Giáp Tý,
có Tử vi ngộ Tiệt không, Vượng
– Phúc đức lập tại cung Ất Sửu, có Văn
xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên không, Tiệt không, Suy
– Điền trạch
lập tại cung Giáp Dần, có Phá quân, Thiên mã, Địa không, Cô thần, Nguyệt giải,
Thiên vu, Âm sát, Bệnh
– Sự nghiệp lập tại cung Ất Mão, vô chính diệu,
có Thiên quan, Thiên phúc, Hồng loan, Thiên hình, Tử.
– Giao hữu lập tại
cung Bính Thìn, có Thiên phủ, Liêm trinh, Đà la, Hữu bật, Hoa cái, Mộ.
–
Thiên di lập tại cung Đinh Tị, có Thái âm, Lộc tồn, Thiên thọ, Kiếp sát, Phá
toái, Nguyệt đức, Tuyệt
– Tật Ách lập tại cung Mậu Ngọ, có sao Tham lang
(Hóa Lộc) Kình dương, Bát tọa, Tuần không, Thiên khốc, Thiên hư, Thai
–
Tài bạch lập tại cung Kỷ Mùi, có Thiên đồng, Cự môn, Linh tinh, Thiên việt, Tam
thai, Long đức, Dưỡng
– Tử tức lập tại cung Canh Thân, có Vũ khúc, Thiên
tướng, Địa kiếp, Tam thai, Phỉ liêm, Trường sinh
– Phu thê lập tại cung
Tân Dậu, có Thái dương, (Khoa) Thiên lương, Thiên hỉ, Hàm trì, Thiên đức, Mộc
dục.
– Huynh đệ lập tại cung Nhâm Tuất, có Thất sát, Tả phụ, Phượng các,
Ân quang, Thiên quý, Quả tú, Giải thần, Quan đới.
Mệnh bàn này,
điều khiến ta chú ý nhất là cung Mệnh có Thiên cơ hóa Kị đồng độ với Hỏa tinh,
nhưng cung Di (Đinh Tị) lại là Thái âm hóa Quyền đồng độ với Lộc tồn, vì vậy có
thể luận đoán, mệnh tạo lợi về tiền tài nếu rời xa quê
hương.
Nhưng Thái âm
lạc hãm, hội Thái dương hóa Khoa ở cung Dậu cũng rơi vào nhược địa, thêm vào đó
còn bị tinh hệ “Thái dương Thiên lương” ở Dậu và Thiên cơ ở Hợi xung chiếu, cung
Sửu hội hợp lại vô chính diệu, phải mượn “Thiên đồng Cự môn”, Linh tinh, Thiên
việt của cung Mùi để “an sao nhập cung” cho cung Sửu. Vì vậy có thể luận đoán
mệnh tạo ở nơi xa, tuy có thể phát tài, nhưng điều tiếng thị phi, thậm chí phạm
pháp.
Vận trình sáng
sủa nhất là từ 32 đến 41 tuổi vào đại hạn Giáp Dần, cung Di của đại hạn này là
cung Canh Thân có Vũ khúc hóa Khoa, cung mệnh của đại hạn này là cung Giáp Dần
có Thiên mã có lưu Lộc tồn của đại hạn, thành cách “Lộc Mã giao trì“, lưu
Lộc còn xung động Tham lang hóa Lộc của cung Ngọ, vì vậy trong đại hạn này mệnh
tạo có thể phát tài ở nơi xa.
Nhưng cũng trong
đại hạn này, cung Phụ mẫu của đại hạn (cung Ất Mão) vô chính diệu, phải mượn
thái dương hóa Kị (vốn là hóa Khoa) và Thiên lương để theo phép “an sao nhập
cung” cho cung Phụ mẫu, dẫn đến tình hình có lưu Dương và Thiên hình đồng độ,
cho nên không những chủ về cha mất trong hạn này, hơn nữa, lưu niên đến hai cung
Mão và Dậu còn sợ rằng sẽ có sự cố phạm pháp.
Năm Canh Thân
1980 cung mệnh của lưu niên này có Vũ khúc (đại hạn thì hóa Khoa, lưu niên thì
hóa Quyền), có Thiên tướng và Lộc tồn của lưu niên đồng độ, thêm vào đó, cung Di
của lưu niên lại có Thiên Mã của lưu niên bay vào, thành cách lưỡng trùng
“Lộc Mã giao trì“, vì vậy chủ về năm đó thu hoạch rất
khá.
Nhưng năm kế
tiếp, cung mệnh lưu niên tới cung Tân Dậu có Thái dương (đại hạn thì Hóa Kị) và
Thiên lương, hội hợp Văn khúc (lưu niên thì Hóa Khoa) và Văn Xương (lưu niên thì
Hóa Kị) của cung Sửu, lại hội hợp với Thiên đồng và Cự môn (lưu niên thì Hóa
Lộc) mượn của cung Mùi để an sao, còn hội hợp với Thái âm hóa Quyền và Lộc tồn
của tinh bàn gốc. Ta nên chú ý cung Dậu, có lưu Dương lưu Đà của đại hạn cùng
chiếu, thêm vào đó còn có Thiên hình từ cung Mão và Kiếp sát từ cung Tị đến hội.
Cho nên năm đó (1981), tuy có Lộc tồn của lưu niên xung khởi Lộc tồn của tinh
bàn gốc, nhưng vẫn chủ về có dính dáng đến pháp luật, kiện tụng và phá
tài.
Đến năm Ất Sửu,
cung mệnh lưu niên là cung Sửu vô chính diệu, mượn “Thiên đồng Cự môn” và Linh
tinh, Thiên việt của đối cung để nhập cung, lại có Đà la của đại hạn đồng độ,
rồi lại hội hợp với Thái âm lạc hãm (lưu niên thì Hóa Kị) và Thái dương (đại hạn
thì Hóa Kị), vì vậy mà bị cuốn vào vòng thị phi, bất hòa, tranh
chấp.
Tương lai đến
năm Đinh Mão, cung mệnh lưu niên là cung Mão, vẫn là cung vô chính diệu, lại
mượn Thái dương hóa Kị từ cung Dậu là đối cung, để “an sao nhập cung” cho cung
Mão, lại hội hợp với Cự môn (lưu niên thì Hóa Lộc) và Thiên cơ hóa Kị, mà còn
kèm theo Đà la của lưu niên, nguyên cục lại có Hỏa tinh, Linh tinh cùng chiếu,
lại gặp thêm các sao hung Thiên hình, Đại hao, Thiên nguyệt, nên cẩn thận, nếu
không e rằng sẽ vì phạm pháp mà phá tài lớn.
Ghi
chú về phép định Tiểu hạn
Tiểu hạn là chủ
về Cát – Hung của một năm. Do phái Trung Châu không dùng Tiểu hạn, mà chỉ dùng
Lưu niên để luận đoán, nên Tôi không trình bày phép định Tiểu hạn trong chương
này.
3)-
Cách luận đoán Lưu nguyệt
Dùng Đẩu Số để luận đoán Lộc Mệnh, không nên thường xuyên luận
đoán cát – hung của lưu Nguyệt, bởi vì quá tỉ mỉ, bất kể cát hay hung cũng đều
sẽ ảnh hưởng đến tâm trạng của mệnh tạo. Nhưng cũng có một số tình huống, thí dụ
như năm đó dễ xảy ra tai nạn giao thông, thì tốt nhất là luận đoán lưu Nguyệt để
trợ giúp thêm, xem vào tháng nào có hung hiểm để cố tránh đi xa bằng xe cộ. Bởi
vì trên thực tế khó mà hoàn toàn không đi xa trong vòng một năm, cho nên luận
đoán lưu Nguyệt để bổ trợ.
Đơn cử một ví
dụ:
Mệnh tạo bị tai nạn giao thông, vì vậy mà gãy xương, Vương
Đình Chi tôi căn cứ vào mệnh bàn để truy tìm điềm báo của sự cố: Âm nữ, Thủy nhị
cục, Mệnh chủ Cự môn, Thân chủ Thiên cơ. Mệnh lập tại cung Ngọ, có Cự môn (hóa
Kị), Lộc tồn tọa thủ.
Vào tháng 5 năm
Ất Mão 1975, cung mệnh của đại hạn ở cung Mậu Thân, có “Thiên đồng Thiên lương”
đồng độ, có Địa không và Địa kiếp đối củng, hội hợp Thiên cơ, Hỏa tinh ở cung
Nhâm Tý (vốn là hóa Khoa, đại vận thì hóa Kị), với Thái âm (hóa Lộc) Thiên hình
đồng độ ở cung Giáp Thìn.
Cung Di của lưu
niên ở Giáp Dần vô chính diệu, mượn sao của cung Mậu Thân để “an sao nhập cung”,
biến thành Địa không và Địa kiếp đồng cung (cung Dần) hội hợp với Cự môn hóa Kị
(còn gọi là “Kình Đà giáp Kị”), còn hội hợp với Thái dương lạc hãm ở cung Canh
Tuất.
Kết cấu của tinh
hệ đã hiển thị điềm hung hiểm trong đại hạn này, vì vậy cần phải tìm năm nào xảy
ra.
Mệnh tạo vào năm
Tân Hợi 1971 và năm Quý Sửu 1973 đều đã từng lái xe đi xa, nhưng chưa bị thương
gì (bạn đọc thử luận đoán xem tại sao). Nhưng đến năm Ất Mão 1975, cung mệnh của
lưu niên ở cung Ất Mão, trùng hợp với tình hình Kình dương của lưu niên và Đà la
của lưu niên giáp cung (tuy chẳng phải “giáp Kị”, nhưng do Thiên phủ ở cung Mão
không hóa Kị, nên cũng thuộc tính chất không cát tường), hội cung Hợi vô tính
diệu, nên mượn “Liêm trinh Tham lang” của cung Tị để an sao, hai sao lại bị lưu
Dương và lưu Đà của đại hạn giáp cung. Ngoài ra, ở đối cung là cung Dậu có “Vũ
khúc Thất sát”, cung Mùi là Thiên tướng của “Hình Kị giáp
ấn“.
Điều xấu nhất
là, cung Tai Ách của lưu Niên bay đến cung Tuất có Thái dương lạc hãm ở đây,
tương chiếu Thái âm (vốn gốc hóa Lộc, lưu Niên thì hóa Kị), Đà la của đại hạn,
Kình dương của lưu Niên và Thiên hình; hội hợp với “Thiên đồng Thiên lương”, Đà
la của lưu niên ở cung Dần, và hội hợp với Cự môn hóa Kị (Hóa Kị này xung khởi
Thiên cơ hóa Kị của đại hạn) và lưu Dương của đại hạn ở cung Ngọ. Các sao sát –
kị đều nặng, nên năm đó chủ về có tai nạn.
Sau đó mới xem
đến lưu Nguyệt.
Năm Mão, Đẩu
Quân tại cung Hợi, tức tháng Giêng khởi từ cung Hợi, đến tháng Năm thì cung mệnh
của lưu Nguyệt đến cung Mão, tức là trùng với cung mệnh của lưu Niên. Tính phép
độn can, năm Ất Mão khởi Mậu Dần (tháng Giêng), tháng Năm thì can chi của cung
mệnh là Nhâm Ngọ, vì vậy cung Di có Vũ khúc Hóa Kị (cung Dậu), cung mệnh của lưu
Nguyệt lại có Kình Đà của lưu Niên giáp cung, hơn nữa Kình Đà của lưu Nguyệt còn
xung khởi Đà la Kình dương của lưu Niên, xung khởi Đà la Kình dương của đại hạn,
toàn bộ đồng loạt bắn vào cung Tai Ách của lưu Nguyệt ở cung Tuất. Cung Tuất còn
bị Đà la của lưu Nguyệt đối nhau với Thiên hình ở cung Thìn, còn bị Thái âm hóa
Kị từ cung Thìn vây chiếu. Do đó luận đoán vào tháng 5 mà xuất hành sẽ có hung
hiểm.
Vũ khúc hóa Kị
và Thất sát đồng độ ở cung Di (Dậu) đã hiển thị tính chất bị thương tổn thuộc
Kim.
Từ ví dụ này có
thể biết, muốn luận đoán lưu Nguyệt, cần phải bắt đầu tìm từ đại hạn, sau đó tìm
lưu Niên, tiếp sau đó rồi tìm lưu Nguyệt, thì mới có ý nghĩa ứng dụng thực tế.
Bởi vì, mục đích luận đoán lưu Nguyệt chỉ là trợ giúp trong việc “xu cát tị
hung”. Nếu cứ tìm loạn xạ một tháng để luận đoán, do không có mục đích nên quá
mông lung, sẽ dễ lạc vào mê cung.
Thêm một ví dụ về
Cách luận đoán lưu nguyệt
Bé gái sinh năm
Nhâm Tuất 1982, dương nữ, Thổ ngũ cục, Mệnh chủ Lộc tồn, Thân chủ Văn
xương.
– Mệnh lập tại cung Kỷ Dậu, có Vũ khúc (khóa Kị), Thất
sát
– Năm kế tiếp mắc bệnh không thuyên giảm, cha mẹ của bé
gái mời Vương Đình Chi luận đoán. Vương Đình Chi cho rằng: có thể đường hô hấp
có khối u, khuyên nên mời bác sỹ chuyên khoa kiểm tra thật kỹ lưỡng. Cha mẹ liền
mang bé gái nhập viện kiểm tra, đã chứng thực là khí quản có khối u, may mà chưa
ác hóa, có hy vọng trị khỏi.
– Cung Tai Ách mệnh bàn này là
Thái âm tọa thủ tại cung Giáp Thìn, nhưng có tứ sát Linh tinh, Kình dương ở Điền
trạch cư Tý tam phương ức hiếp, mắc bệnh là điều không còn nghi ngờ, vấn đề là
mắc bệnh gì. Thái âm vốn chủ về bệnh âm phần hao tổn, nhưng cung Tai Ách của
mệnh bàn nhiều lúc chẳng hiện thị bệnh tật khi còn bé, trái lại, có thể thấy ở
cung mệnh.
– Một tuổi chưa vào hạn cung Dậu trong tinh bàn,
lưu Niên Nhâm Tuất Vũ khúc hóa Kị ở tiểu hạn một tuổi (tức cung mệnh của thiên
bàn), cho nên luận đoán là đường hô hấp có khối u.
– Hạn 2
tuổi của bé gái ở cung Tài bạch tại cung Ất Tị, là năm Quý Hợi, gặp Kình Đà của
lưu Niên của tam phương hội chiếu tiểu hạn tại cung Ất Tị, trong cung Tị lại có
Tham lang hóa thành sao Kị, còn hội hợp với tạp diệu Thiên hình ở Sửu, Kiếp sát,
Đại hao, chủ về mắc bệnh có tính chất hao tổn. Trong thực tế, năm đó bé gái tiếp
nhận xạ trị, thể chất đương nhiên bị hao tổn.
– Hạn 3 tuổi ở
cung Tai ách tại Thìn, lưu Niên là năm Giáp Tý, trong hạn Thái âm tọa thủ mà có
Thái dương hóa Kị tại Tuất vậy chiếu, còn có tứ sát tinh cùng chiếu, bệnh tình
rất nguy hiểm, sau may mắn có thể vượt qua là nhờ sức của Thiên lương và Hoa cái
hội chiếu. Hơn nữa, Kình Đà của thiên bàn chưa bị Kình Đà của lưu Niên xung
khởi, sức ảnh hưởng chưa mạnh mà thôi.
– Đến hạn 4 tuổi dần
dần khởi sắc, được Thiên thọ vây chiếu nên không có tai biến gì. Mệnh này rất
khó xác định có yểu mạng hay không, bởi vì có liên quan đến Tổ đức, cha mẹ của
bé gái đều đôn hậu hiền hành, nên đại hạn lúc 3 tuổi đã an nhiên vượt qua, có
thể nói là sự may mắn trời ban
————————————-
Phụ lục: phương pháp tính tiểu hạn cho trẻ
con
Cách tính tuổi
để khởi Đại hạn là căn cứ vào ngũ hành cục số, tối thiểu là thủy nhị cục hai
tuổi mới vào vận, tối đa là hỏa lục cục phải sáu tuổi mới vào vận. Vì vậy từ lúc
sinh ra cho tới khi vào vận có một khoảng trống, phải lấy phương pháp tính tiểu
hạn cho trẻ con để bổ xung.
Tính hạn của trẻ
con tổng cộng có 6 cung, nhưng khi ứng dụng thì căn cứ vào tuổi khởi đại hạn để
làm chuẩn, ví dụ 3 tuổi khởi vận thì chỉ đi 3 cung. Các cung tính hạn từ khi
sinh ra cho tới khi vào đại hạn như sau:
– Một
tuổi ở cung Mệnh
– Hai tuổi ở cung Tài bạch
– Ba tuổi ở cung Tật
ách
– Bốn tuổi ở cung Phu thê
– Năm tuổi ở cung Phúc
đức
– Sáu tuổi ở cung Sự nghiệp (quan
lộc)
Khi xem tính hạn
cho trẻ con, chỉ xem “tam phương tứ chính” của bản cung, không bày bố thêm 11
cung còn lại. Nói cách khác, chỉ luận đoán cung Mệnh (tức bản cung), không luận
đoán kèm lục thân và hoàn cảnh xung quanh. Đây là chỗ giới hạn của phương pháp
tính hạn cho trẻ con.
4)-
Cách luận đoán lưu nhật
Vương Đình Chi
không chủ trương luận đoán lưu Nhật, bởi vì “nước trong quá thì không có cá,
người xét nét quá thì không có bạn“, không nên mang vận trình ra luận đoán
quá chi li. Nhưng trong một số tình hình cá biệt, thì luận đoán lưu Nhật có lúc
lại cần thiết. Ví dụ trường hợp luận đoán “tử kỳ” cho một người bệnh sắp chết,
để gia đình chuẩn bị hậu sự, hoặc là Tháng có thể xảy ra tai nạn giao thông, mà
có chuyện cần thiết nhất định phải đi, bất đắc dĩ không còn cách nào, buộc phải
chọn Ngày để đi.
Luận đoán lưu
Nhật là khởi ngày mồng 1 từ cung mệnh của lưu Nguyệt, ngày muốn luận đoán rơi
vào cung vị nào đó, thì cung đó là cung mệnh của lưu Nhật, sau đó tham chiếu vạn
niên lịch để tìm “can chi” ngày muốn luận đoán, thông qua can chi này để tính
lưu diệu của lưu Nhật.
Ví dụ như tháng
4 cung mệnh (của lưu nguyệt) ở Tuất, tức là khởi ngày mồng 1 ở cung Tuất, đi
thuận, nếu muốn tìm cung mệnh của lưu nhật ngày mồng 4, thì đếm thuận đến cung
Sửu là được. Tra vạn liên lịch, tháng 4, năm Ất Sửu, can chi của ngày mồng 4 là
ngày Nhâm Tuất, do đó lấy can chi “Nhâm Tuất” để tìm lưu diệu, như Thiên lương
hóa Lộc, Tử vi hóa Quyền, Thiên phủ hóa Khoa, Vũ khúc hóa Kị, Lộc tồn ở cung
Hợi, Mã nhật ở cung Thân, .v.v…
Nếu có tháng
Nhuận, thì lấy nửa tháng đầu tính thuộc tháng trước, nửa tháng cuối tính thuộc
tháng sau. Lưu nhật thì vẫn luân chuyển theo chiều thuận. Năm Giáp Tý đó Nhuận
tháng Mười, từ ngày mồng 1 đến ngày 15 của tháng 10 nhuận là thuộc tháng Mười,
từ ngày 16 đến ngày 29 của tháng 10 nhuận là thuộc tháng
11.
Ví dụ như lưu
Nguyệt tháng 10 ở cung Dậu, tức cung này khởi ngày mồng 1 đếm thuận đến ngày 13
và ngày 25 thì trở về cung Dậu, đến cung Dần là ngày 30, vẫn đếm tiếp theo chiều
thuận đến ngày mồng 1 của tháng 10 nhuận, tức là cung Mão làm cung mệnh của ngày
mồng 1 tháng 10 nhuận. Muốn an lưu diệu thì phải tra vạn niên lịch để biết ngày
mồng 1 là ngày Tân Dậu, vì vậy lấy can Tân để tra lưu
diệu.
Còn ngày 16 của
tháng 10 nhuận, thì khởi từ cung mệnh của tháng 11, tức là cung Tuất, đi theo
chiều thuận. Lưu nguyệt dùng can chi của tháng 11, tức tháng Bính Tý, đối với
lưu nhật đương nhiên vẫn dùng can chi của ngày đó.
Đơn cử một nhật bàn làm thí dụ:
– Dương nữ, mộc tam cục,
Mệnh chủ Vũ khúc, Thân chủ thiên tướng.
– Mệnh lập tại cung Mậu Tuất,
có Liêm trinh (hóa Kị) Thiên phủ
– Phụ mẫu tại cung Kỷ Hợi, có Thái âm,
Thiên khôi, Thiên hỉ
– Phúc đức tại cung Canh Tý, có Tham lang, Văn
khúc
– Điền trạch tại cung Tân Sửu, có Thiên đồng (hóa Lộc), Cự môn,
Thiên hình, Phá toái.
– Sự nghiệp tại cung Canh Dần, có Vũ khúc, Thiên
tướng, Đài phụ, Long trì
– Giao hữu tại cung Tân Mão, có Thái dương,
Thiên lương, Địa không
– Thiên di tại cung Nhâm Thìn, có Thất sát, Đà
la, Thiên hư
– Tật ách tại cung Quý Tị, có Thiên ơ, Lộc tồn, Đại hao,
Thiên vu, Thiên diêu, Hồng loan
– Tài bạch tại cung Giáp Ngọ, có Tử vi,
Hữu bật, Linh tinh, Kình dương
– Tử tức tại Ất Mùi, có Thiên nguyệt, Địa
kiếp
– Phu thê tại cung Bính Thân, có Phá quân, Tả phụ, Thiên mã, Thiên
khốc
– Huynh đệ tại cung Đinh Dậu, có Hỏa tinh, Thiên
việt.
Đương số đang ở
trong đại hạn Ất Mùi, cung Mùi vô chính diệu, mượn các sao của cung Sửu để an.
Thế là biến thành Thiên hình và Thiên nguyệt đồng độ, có Địa kiếp và Địa không
tương hội.
Thiên đồng và Cự
môn chủ về bệnh liên quan đến thần kinh cột sống. Cho nên trong đại hạn này,
mệnh tạo có thể mắc bệnh này, mà còn là mãn tính. Bởi vì Thiên hình và Thiên
nguyệt là điềm bệnh tật triền miên, kéo dài khiến cho người bệnh giống như bị
tra tấn. Có Thái dương và Thiên lương hội hợp, làm mạnh thêm tính chất
này.
Tra lưu niên,
đến năm Nhâm Tuất, cung mệnh của lưu niên ở Tuất, có Liêm trinh hóa Kị hội Vũ
khúc (lưu niên thì hóa Kị) ở Dần, Đà là của lưu niên bay vào cung Tuất, xung
động Đà la và lưu Dương của đại hạn ở cung Thìn, còn xung động cả lưu Đà của đại
hạn. Lại còn gặp Kình dương của lưu niên ở cung Tý và lưu Đà của đại hạn ở cung
Dần, lại xung khởi Kình dương Linh tinh ở cung Ngọ đến hội, cho nên có thể đoán
định năm đó ắt sẽ có tai ách.
Tính chất của
Tai ách là gì? Do Vũ khúc hóa Kị xung khởi Liêm trinh hóa Kị, thông thường đều
chủ về tai nạn chảy máu, có điều, năm đó cung Thiên di (Nhâm Thìn) là Thất sát
tọa thủ, nên không phải tai ách chảy máu ở nơi khác.
Có nhiều loại
tai ách chảy máu, nữ mệnh có thể là đường sinh dục, trụy thai, cũng có thể là
vết thương có mủ, đương nhiên cũng có thể là bị thương do kim loại. Thế là phải
truy tìm đến cung Tai ách của lưu niên.
Cung Tai ách của
lưu niên ở cung Quý Tị, có Thiên cơ tọa thủ, bị hai sao Kình dương Đà la đều
xung động giáp cung, và Thái âm hóa Kị ở Hợi xung chiếu, chủ về tổn thương, Thái
âm và Thiên cơ tương hội, chủ về bệnh liên quan đến hệ thần kinh, còn tương hội
với tinh hệ “Thiên đồng Cự môn” và Thiên hình ở cung Sửu, lại hội hợp với “Thái
dương Thiên lương” mượn ở cung Mão nhập cung Dậu, tam phương ứng hiếp, dó đó có
thể đoán định là bị thương bát ngờ gây ảnh hưởng đến thần kinh cột
sống.
Tra đến lưu
nguyệt, năm Nhâm Tuất tháng Giêng khởi Nhâm Dần, mà Đẩu quân năm Tuất cũng trùng
hợp ở cung Dần, cho nên lấy cung Dần làm cung mệnh của lưu
Nguyệt.
Tháng Nhâm Dần
thì Vũ khúc lại hóa Kị, trùng điệp với lưu niên hóa Kị, sức mạnh rất lớn, lại
tương hội với lưu niên Đà, nguyệt Đà của cung Tuất, còn tương hội với Kình dương
và Linh tinh ở cung Ngọ (tam phương tứ chính của hai sao này bị vận Đà, niên Đà,
nguyệt Đà, niên Dương, nguyệt Dương xung khởi, nên, tuy là Kình dương và Linh
tinh của nguyên cục, nhưng vẫn có tác dụng [ví lưu nguyệt của cung mệnh), vì vậy
có thể đoán vận trình của tháng này không được tốt.
Tra lưu nhật đến
ngày mồng 5 là ngày Nhâm Tý, cung mệnh của lưu Nhật ở cung Ngọ, vì can của ngày
là Nhâm, nên Vũ khúc của cung Dần lại hóa Kị lần nữa, thành Vũ khúc ba lần hóa
Kị, xung động Liêm trinh hóa Kị ở cung Tuất. Ở tam phương tứ chính tổng cộng gặp
8 sát tinh Kình dương Đà la và Linh tinh, cực kỳ nghiêm
trọng.
Thêm vào đó,
cung Tai ách của lưu nhật, là cung Sửu có “Thiên đồng Cự môn” và Thiên hình, còn
bị lưu nhật hóa Kị và lưu nhật Kình dương giáp cung. Vì vậy ngày hôm đó (ngày 5
tháng Giêng, năm Nhâm Tuất 1982) khó tránh tai nạn giao thông, chảy máu, gãy
xương, sau trị khỏi vẫn còn bị tổn thương thần kinh cột sống, phải vật lý trị
liệu.
Người phụ nữ này
sau khi bị tổn thương, ảnh hưởng đến sinh hoạt tính dục, chồng vì vậy mà thay
đổi, đến năm 1985 Ất Sửu có nguy cơ phải ly hôn. Bạn đọc thử xem xét cung Phu
của bà ta từ lưu niên Nhâm Tuất xem sao.
5)-
Cách luận đoán lưu thời
Tử Vi Đẩu Số tuy
có phương pháp luận đoán “lưu thời”, nhưng khi luận đoán lưu thời, sẽ rơi vào
tình trạng chi ly thái quá, nên phái Trung Châu ít dùng
đến.
Phép tính lưu
thời là khởi cung mệnh của giờ Tý ở cung Tý, khởi cung mệnh của giờ Sửu ở cung
Sửu, .v.v… đến khởi cung mệnh của giờ Hợi ở cung Hợi. Nhưng can chi thì dùng
ngũ Thử độn như sau:
– Ngày Giáp Kỷ khởi giờ Giáp Tý
–
Ngày Ất Canh khởi giờ Bính Tý
– Ngày Bính Tân khởi giờ Mậu Tý
–
Ngày Đinh Nhâm khởi giờ Canh Tý
– Ngày Mậu Quý khởi giờ Nhân
Tý
Như đối với ví
dụ trên, ngày Nhâm Tý khởi giờ Canh Tý, đến giờ Ngọ độn can là Bính, cung mệnh
của lưu thời ở Ngọ, có Liêm trinh hóa Kị, còn có Kình dương bay vào cung mệnh,
cho nên tai nạn giao thông xảy ra vào lúc 12 giờ 20 phút, là thuộc giờ
Ngọ.