Phân loại tinh hệ theo nhóm bệnh – Vương Đình Chi

Phân loại tinh hệ theo nhóm bệnh – Vương Đình Chi
Sách liệt kê theo nhóm Bệnh, sau đó kể ra các tinh hệ có thể xảy ra những bệnh
tật này. Hễ tinh hệ này ở cung Mệnh, cung Tai Ách (có lúc bệnh thuộc hệ thần
kinh và bệnh mãn tính ứng nghiệm ở cung Phúc đức), bất kể ở Lưu niên, ở Đại hạn,
hay ở tinh bàn nguyên cục đều có thể ứng nghiệm.

       Về
nguyên tắc luận đoán, vẫn cần chú ý tính chất của cung Tai Ách. Ví dụ như Tham
Lang có kèm sát tinh ở cung Tai Ách, tính chất có thể là bệnh gan, cũng có thể
là bệnh thận. Đến Đại hạn, cung hạn Tai Ách gặp Liêm trinh – Thiên tướng, mà
Thiên tướng bị cách “Hình Kị giáp Ấn“, đây là điềm tượng chủ về bệnh Thận
hoặc bệnh về tính dục. Do Tham Lang ở nguyên cục có tính chất chủ về bệnh thận,
nên đến Đại hạn này chủ về ứng nghiệm. Các tinh hệ dưới đây, thông thường đều
phải gặp các Sát – Kị – Hình – Hao mới đúng, và xem các sao hội hợp cát hung
nhiều ít mà định bệnh tình.

       Sau đó tra các Lưu niên
trong Đại hạn này, sẽ tìm ra Năm phát bệnh. Nguyên tắc luận đoán này, mới nghe
thật đơn giản, nhưng nhiều Danh gia Đẩu số còn không biết. Bạn đọc có thể dựa
vào nguyên tắc này để thực tập, kinh nghiệm ngày càng phong phú, ắt sẽ có thành
tựu. 

      
Nhóm 1: Bệnh hệ thần kinh

       Các tổ hợp sao chủ yếu là
Thiên cơ, Thái âm, Thiên đồng. Cũng có thể nói tổ hợp cách “Cơ Nguyệt Đồng
Lương” rất dễ bị bệnh liên quan đến hệ thần kinh, như suy nhược thần kinh, tâm
thần, thiểu năng chí tuệ, .v.v…

       Nhiều lúc bệnh mang
tính suy nhược thần kinh có liên quan đến “Thiên đồng – Cự môn”. Nếu “Tử Vi –
Tham lang” thủ cung Tai Ách gặp sao Đao hoa quá nặng, thì lúc đến hạn “Cơ Nguyệt
Đồng Lương” thủ cung Tai Ách, thường dễ mắc chứng bệnh này, biểu hiện là dương
nuy, di tinh, xuất tinh sớm. Ở đây không cần xem Cự Môn.

      
Người bị bệnh tâm thần, chủ yếu xem Thiên cơ, đông y gọi là Can
phong.

       Nếu “Thiên cơ – Thái âm” đồng cung với Hỏa Đà,
còn gặp thêm Địa Không, Địa Kiếp, là rối loạn Tâm thần kinh (hysteria), thường có biểu hiện kích động, cử chỉ thất thường.
Nhưng cần phải hội Thiên Lương và có Thái Dương không có nhập miếu tương chiếu,
mới ứng nghiệm.

       Bệnh viêm não Nhật bản-B, cũng có liên
quan với tinh hệ “Cơ Nguyệt Đồng Lương”, năm phát bệnh là cung hạn Tai Ách Thiên
Lương lạc hãm, hội chiếu Hỏa tinh, Linh tinh. Phỉ liêm, Âm sát. Nhóm tinh hệ này
khác với nhóm tinh hệ chủ về bệnh Hysteria nên cẩn thận phân
biệt.

       Tinh hệ chủ về viêm màng mão đại khái tương tự với
tinh hệ chủ về chủ về viêm mang não Nhật bản – B, chỉ khác nhau một điều, là
Thái Dương nhập miếu, nếu Thái dương lạc hãm, phần nhiều là viêm não Nhật Bản-B,
thời gian ứng nghiệm thường là lúc hạn Tật Ách là Thất Sát hoặc Phá Quân. Thất
sát thường chủ về chứng viêm, Phá quân chủ về chứng viêm cấp
tính.

       Chứng miệng méo, miệng chảy nước dãi (không phải
do trúng phong), thì xem các tinh hệ chủ về bệnh chủ ở tạng Thận. Có lúc cung
Tai Ách ở nguyên cục là Tham lang, niên hạn ứng nghiệm là lúc cung hạn Tật Ách
“Thiên cơ – Thái Âm”, cũng có lúc ngược lại, nguyên cục là “Thiên cơ Thái âm”,
thời kỳ ứng nghiệm là hạn Tham lang. Đây là một ví dụ. Hai chứng này đều gặp
nhiều Tạp diệu như Thiên hư, Thiên sứ, Thiên diêu, thì phải lưu
ý.

      Trong số các bệnh
hệ thần kinh, có bệnh “rỗng tủy sống” (syringomyelia), xem hệ “Thiên đồng – Cự
môn” và hệ “Thất sát – Phá quân”. Người bệnh thường cảm thấy chân tê, không có
cảm giác, nếu nghiêm trọng các ngón tay ngón chân có thể bị co quắp, hoặc tê
liệt phần mặt. Cổ nhân cho rằng Thất sát, Phá quân là sao chủ về tổn thương, tàn
tật, nguyên nhân có liên quan đến chứng bệnh này.

       Ngoài
ra còn có bệnh múa tay múa chân (ST. Vitu’s dance), người bệnh không thể kiểm
soát hoạt động của chân tay, thường có một số động tác nhanh không tự chủ, có
lúc thì mắt máy giật, nhíu may, lè lưỡi, bệnh tình tuy không đau, nhưng rất
phiền phức. Tinh hệ chủ về chứng này là Tham lang đồng cung với Địa không, Địa
kiếp, lại gặp thêm Kình dương, Thiên sứ, có lúc là Thiên đồng hóa Kị đồng cung
với Hỏa linh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, cũng chủ về chứng này, nhưng cung
Tai Ách của nguyên cục phải là Kình dương ở cung Ngọ, cũng là một nhân tố quan
trọng chủ về chứng này.

       Đau dây thần kinh tam thoa, tinh
hệ chủ yếu là “Thái Dương – Thiên Lương”, có Hỏa Linh hội chiếu hoặc đồng độ,
lại gặp thêm Thiên thương, còn có Thiên tướng bị cách “Hình Kị giáp ấn
hội chiếu cung mệnh, đều chủ về chứng bệnh này.

       Tinh hệ
chủ về liệt thần kinh mặt, và tinh hệ chủ về đau dây thần kinh tam thoa rất khó
phân biệt. Điều cần chú ý là, Kình dương phần nhiều chủ về tê liệt thần kinh
mặt, tinh hệ ứng nghiệm phát bệnh phần nhiều là Thiên Cơ, còn đau dây thần kinh
tam thoa thì không phải vậy.

       Bệnh thiên đầu thống mang
tính thần kinh, thì xem tinh hệ “Thiên đồng – Thiên lương”, tạp diệu hội hợp
phần nhiều có Thiên nguyệt, Thiên hình. Có lúc là “Thiên cơ – Cự môn” đồng cung
với Hỏa tinh cũng chủ về bệnh xuất huyết não, khác với bệnh thần kinh đơn thuần,
phân biệt chủ yếu là tinh hệ “Thiên cơ – Cự môn” có biểu hiện choáng
ngất.

       Nếu tinh hệ “Thiên cơ – Cự môn” mà Thiên cơ hóa
Kị, còn gặp thêm Thiên hư, thì càng ứng nghiệm.

       Bàn tay
chân run mang tính thần kinh, thì xem tinh hệ “Thiên đồng – Cự môn”, cũng có
quan hệ với Đà la và Cô thần.

       Bệnh tay chân run do trúng
độc, thì xem tinh hệ “Thái dương – Thiên lương”, có Thiên nguyệt cùng bay đến tì
càng đúng. Do trúng độc cũng có thể gây ra chứng tắc ruột, thời kỳ ứng nghiệm
phải xem cung hạn Cự Môn

       Viêm da mang tính thần kinh là
tinh hệ “Liêm trinh – Thiên tướng”, thời kỳ ứng nghiệm ắt cung hạn phải gặp
Thiên cơ, Thiên Đồng. 

      
Nhóm 2: Bệnh hệ tiêu hóa

       Cơ quan thuộc hệ tiêu hóa,
bao gồm Trường (ruột), Vị (dại dày), Can (gan), Đảm (mật). Theo chứng nghiệm của
Vương Đình Chi, có thể phân chia như sau:

       Vị hàn, thòng
dạ dày (sa bao tử), thì xem Thiên phủ thuộc loại “kho lộ”, “kho rỗng”, hoặc Tử
vi là cách “tại dã cô quân”, nhưng không được có Hỏa tinh đồng độ mới đúng, có
Hỏa tinh thì nhuyễn hóa thành chứng viêm.

       Nếu tinh hệ
“Tử vi – Thiên tướng” thủ cung Tai Ách, thì thường là Vị hàn, buồn nôn, hoặc
tiêu chảy thuộc chứng Hàn, Thiên phủ đồng cung với Hữu bật, phần nhiều là sa bao
tử.

       Chứng vị hàn cũng có thể là chứng dạ dày dư acid,
các sao ứng nghiệm là Thiên phủ gặp Thiên lương, Phá toái, Âm sát, gặp Liêm
trinh hóa Kị thì bệnh rất nghiêm trọng, có thể phát triển thành chứng đay dạ
dày, thần kinh dạ dày quá mẫn cảm.

       Nếu là viêm dạ dày,
thì xem Thiên cơ hoặc Cự môn. Thiên cơ thì chủ về bệnh mãn tính, thường còn chủ
về đau Gan. Cự môn đồng cung với Hỏa linh thì chủ về viêm dạ dày cấp tính, hay
viêm đại tràng cấp tính. Nếu tinh hệ “Thiên cơ – Cự môn” đồng độ, nguy cơ bị
viêm dạ dày hay viêm đại tràng rất lớn. Có sao Lộc thì giảm nhẹ, không có sao
Lộc mà còn hóa Kị thì càng nặng thêm. Nhưng nếu có Lộc thì thường chủ về bệnh
Trường Vị bất hòa, mức độ nhẹ thì viêm dạ dày cấp tính. Bệnh viêm ruột thừa cấp
tính thì xem Thiên lương gặp Kình dương, hay Thất sát gặp Kình dương, hoặc Phá
quân gặp Kình dương. Trường hợp Phá quân gặp Kình dương cũng chủ về viêm ruột
kết, viêm đại tràng cấp tính


      “Thiên đồng – Thiên lương”
đồng độ, cũng chủ về bệnh dạ dày, phần nhiều thuộc chứng hàn. Nếu có Thiên mã
đồng độ, lại gặp thêm Hỏa tinh, Linh tinh, thì phần nhiều là rối loạn tiêu hóa,
hoặc tiến triển thành tiêu chảy.

       Tử vi cũng chủ về tiêu
chảy, nhưng khác tính chất. Tiêu chảy của Tử vi thông thường là hấp thụ không
tốt, còn tiêu chảy của tinh hệ “Thiên đồng – Thiên lương” là không tiêu hóa
được.

       Xơ gan thì xem Thiên cơ, cũng xem Thất sát ở hai
cung Dần và Thân, nhưng trường hợp sau phần nhiều là viêm gan siêu
vi.

       Hễ Thiên cơ đồng cung với Phỉ Liêm, gặp các sao Sát
– Kị, còn lại gặp thêm các sao Hư, Hư hao, Hao, Thiên nguyệt, phần nhiều chủ về
gan nhiễm ấu trùng (Clonorchiasis) dẫn đến sơ
hóa.

       Nếu sơ gan do ống mật tắc nghẽn gây ra, thì xem
Thiên tướng, có Đà la đồng độ thì càng đúng.

       Ống mật tắc
nghẽn thường do sỏi mật gây ra, tinh hệ ứng nghiệm là “Liêm trinh – Thiên tướng”
đối nhau với Phá quân có sát tinh đồng độ.

       Giun chui ống
mật (gây nên sỏi mật), ngoại trừ Thiên tướng, Đà la, còn phải xem Phỉ liêm. Hễ
bệnh liên quan đến ấu trùng, giun, đều phải xem Phỉ Liêm và Thiên
Nguyệt.

       Có lúc Cự môn cũng chủ về bệnh túi mật, thì vẫn
lấy cung hạn Thiên tướng làm thời kỳ ứng nghiệm, nhất là tinh hệ “Liêm trinh –
Thiên tướng” thì càng đúng.

       Bệnh ở hậu môn chủ yếu xem
Thiên đồng, phối với tạp diệu thì xem Âm sát, Long đức, Phá
toái.

       Trúng độc đường tiêu hóa khác với trúng độc mang
tính thần kinh. Trường hợp sau có thể ví dụ là sử dụng ma túy, trường hợp trước
chỉ là ăn uống trúng độc. Cung Tật Ách gặp Thiên tướng bị cách “Hình Kị giáp
ấn”, Thiên phủ lại không gặp sao Lộc, hoặc gặp sao Lộc mà đồng thời gặp Kình Đà,
thì đều phải chú ý vấn đề ẩm thực. Nếu lại gặp Liêm trinh hóa Kị, thì càng phải
đề phòng độc tố thức ăn nhiễm vào máu.

       Nhóm 3: Bệnh hệ tuần hoàn

       Nhóm bệnh này
chủ yếu là bệnh tim mạch, huyết áp, phần nhiều xem Thái dương, kế đến là Thiên
tướng.

       Nhưng bệnh hệ tuần hoàn có khi do bệnh hệ thần
kinh gây ra, Đông y gọi là “Tâm Thận bất giao”, hoặc suy nhược thần kinh, có thể
dẫn đến tâm thần phân liệt, nhịp tim rối loạn, các chứng bệnh này lại không liên
quan đến Thái dương hoặc Thiên tướng, bạn đọc có thể tham khảo ở mục đã thuật ở
trước.

       Thái dương ở cung vượng, lại gặp Quyền – Lộc,
cũng có thể chủ về huyết áp cao, không nhất định phải gặp sát tinh mới
đúng.

       Thái dương hóa Kị, hoặc Thái dương có Tứ sát tinh
giao hội, cũng là điềm tượng huyết áp cao. Nếu là tổ hợp “Thái dương – Cự môn”
thì càng đúng.

       Tổ hợp
“Thái dương – Thiên lương” cũng chủ về trúng phong, bại liệt, vì Thiên lương có
tính chất bệnh kinh niên. Tinh hệ này cũng thường gặp các sao Thiên Nguyệt,
Thiên Hình hội hợp.

       Thiên tướng chủ về Thận, cho nên lúc
Thiên tướng bị cách “Hình Kị giáp ấn“, hoặc có các sao hung sát trùng
trùng giao hội, cũng chủ về huyết áp cao, cũng có thể là đau tim. Nếu cung Tật
Ách của nguyên cục, có khuynh hướng chủ về bệnh hệ thần kinh, lúc đến niên hạn
Thái Dương thủ cung Tai Ách, cũng dễ bị chứng huyết áp
cao.

       Còn chứng huyết áp thấp có liên quan đến hệ nội
tiết, cũng xem tinh hệ “Thái dương – Thiên lương”, nhưng thường có Địa không,
Địa kiếp hội hợp. Một tinh hệ quan trọng khác là “Thái dương – Thái âm”, hễ có
chứng trạng âm dương bất hòa, thì cũng là rối loạn nội
tiết.

       Cự môn đồng độ với Đà la, hội Thái dương có sát
tinh, có lúc chủ về đau thắt ngực (angina pectoris), xơ vữa
động mạch; nhưng cũng có thể là bán thân bất toại, tức trúng phong (tai biến
mạch máu não)

       Tinh hệ “Thiên đồng – Thiên lương” cũng
chủ về đau thắt ngực, nếu hội các sao Hình – Kị, thì chủ về tắc nghẽn cơ tim,
tắc nghẽn mạch máu.

       Bệnh hệ tuần hoàn cũng bao gồm các
chứng thiếu máu, tăng bạch cầu, các chứng này thì xem Liêm Trinh, nếu Liêm trinh
hóa Kị, có các sao ác sát tụ hội, thì chứng bệnh càng nghiêm
trọng.

       Nếu do trúng độc gây ra thiếu máu, thì vẫn xem
Thiên Lương, hoặc xem tinh hệ “Thái dương – Thái âm”.

      
Thiếu tiểu cầu da có thể bị bầm tím, chứng bệnh này lấy Thiên đồng hóa Kị làm
điềm tượng. Có lúc Thái dương hóa Kị ở nguyên cục có Âm Sát đồng độ, niên hạn
ứng nghiệm là lúc đến cung tật ách Thiên đồng hóa Kị gặp các sao Sát – Hình;
hoặc Thiên đồng của nguyên cục hóa Kị, niên hạn ứng nghiệm là lúc đến cung hạn
tật ách Liêm Trinh đồng cung với Âm Sát. Nhưng trường hợp sau có sự khác biệt
tinh tế, y học gọi là da bị bầm tím có tính mẫn cảm, không có liên quan đến tình
trạng thiếu tiểu cầu. 

       Nhóm 4: Bệnh hệ hô hấp

       Nhóm bệnh này chủ
yếu xem Vũ Khúc, kế đến là Thiên Đồng. Nếu Thất sát, Phá quân hội hợp với các
sao Sát – Kị, nhất là Vũ khúc hóa Kị, thì bệnh tình nghiệm trọng, hoặc bị ác
tính.

       Nhưng cũng có một số bệnh chứng không có liên quan
đến các tinh hệ chủ về bệnh đường hô hấp như đã thuật ở trên; như hen suyễn
thường xem Thái âm, Thiên lương, nếu hen suyễn là tính bẩm sinh thì xem tinh hệ
“Liêm trinh – Thất sát”. Trường hợp trước là bệnh ở ống phế quản, trường hợp sau
là bệnh dị ứng bẩm sinh.

       Nếu là bệnh viêm ống phế quản
cấp tính, thì lấy tinh hệ Vũ khúc gặp Hỏa tinh, Linh tinh làm ứng nghiệm, có
Thiên mã cùng bay đến, thì bệnh tình càng nghiêm trọng. Bệnh viêm ống phế quản
mãn tính cũng có thể xem Vũ khúc, nhưng nếu do ngoại vật xâm nhập lâu ngày mà
gây ra bệnh, như người hút nghiện thuốc lá, hay công nhân làm việc ở nơi nhiều
bụi, thì xem Thiên đồng, Cự môn có các sao Sát – Kị tụ tập, có thể phát triển
thành bệnh tràn khí phổi (pulmonary
emphysema
)

       Ho gà thì lấy Thiên Lương làm điềm tượng,
nhất là tinh hệ “Thiên đồng – Thiên lương” gặp sát tinh, có Thiên mã, phần nhiều
chủ về bệnh ho gà. Khác với tắc nghẽn cơ tim là tinh hệ “Thiên đồng – Thiên
lương” gặp sát tinh, mà không có Thiên mã.

       Lao phổi
(phổi kết hạch) thì xem tinh hệ “Liêm trinh – Thất sát”, hoặc tinh hệ “Vũ khúc –
Thất sát”. Nếu nguyên cục gặp tinh hệ này, đến đại hạn hoặc lưu niên, gặp cung
hạn tật ách Thái âm hóa Kị hội Hỏa Linh là bệnh tình nghiêm trọng, thường phát
triển đến giai đoạn cuối.

       Bệnh tràn khí phổi cũng xem Vũ
khúc, nếu Vũ khúc hóa Kị, bị Liêm trinh hóa Kị của cung hạn xung hội, lại gặp
các sao Thiên hình, Thiên nguyệt, Âm sát thì ứng nghiệm.

      
Một nhóm sao khác chủ về tràn khí phổi, là Phá quân đồng cung với Văn khúc hóa
Kị. Còn Vũ khúc hóa Kị đồng cung với Văn khúc hóa Kị thì chủ về kéo đàm, hen
suyễn.

       Nếu bệnh ở cổ họng thông thường là viêm amidan,
xem Cự môn hóa Kị thì càng đúng. Nếu là bệnh bạch hầu, thì xem tình hình Thái âm
và Cự môn xung hội, nếu các sao Sát – Kị trùng trùng thì ứng nghiệm. Nếu là viêm
họng thì lấy Địa không, Địa kiếp, Đại hao làm biểu
trưng. 

      
Nhóm 5: Bệnh hệ tiết niệu, cơ quan sinh dục

       Nhóm
bệnh này, thì xem Thiên đồng, Thiên tướng, Liêm trinh.

      
Khi bệnh tình phát triển đến giai đoạn cuối, nhất là những bệnh có tính viêm,
thì xem Thiên lương, Thất sát, Phá quân.

       Hễ viêm thận
cấp tính hay mãn tính, phần nhiều đều lấy Liêm Trinh làm ứng nghiệm. Nếu Liêm
trinh gặp Tham lang đồng độ, hoặc vây chiếu có sát tinh, hoặc Liêm trinh hóa Kị
có sát tinh, đều chủ về viêm thận.

       Nhưng nếu viêm thận
do hệ sinh dục bị nhiễm trùng gây nên, thì không gặp Tham Lang cũng ứng nghiệm,
ví dụ như tinh hệ “Liêm trinh – Thiên tướng” bị Kình Đà giáp cung, Hỏa tinh và
Linh tinh giáp cung, hay cách “Hình Kị giáp ấn” đều có thể mắc bệnh nhiễm
trùng này.

       Nếu bệnh viêm thận phát triển đến giai đoạn
mặt bị thũng, hoặc thậm chí ngực hay bụng giữ nước, thì lấy niên hạn cung tật
ách gặp tinh hệ “Thiên đồng – Thái âm” và các sao sát kị, làm thời kỳ ứng
nghiệm.

       Bệnh bàng quang làm khó tiểu tiện, thì xem Thiên
tướng, trường hợp đồng cung với Đà la là đúng. Nếu là bệnh do tuyến tiền liệt
gây ra tiểu tiện khó, thì lấy Tham lang, Liêm trinh làm ứng nghiệm, tinh hệ “Hỏa
Tham”, hay “Linh Tham” càng chủ về bệnh này.

       Niệu đạo
kết sỏi, hay sỏi bàng quang, thì xem tinh hệ “Liêm trinh – Thiên tướng”, lấy
trường hợp khi bị Kình dương và Đà la giáp cung, hay cách “Hình Kị giáp ấn” là
đúng. Có lúc tinh hệ “Thiên đồng – Cự môn” hóa Lộc, bị Hỏa tinh và Linh linh
giáp cung, cũng chủ về bệnh này. Tinh hệ “Thiên đồng – Cự môn” chủ về bệnh ở
đường ống niệu, niệu đạo kết sỏi cũng có thể gây tiểu tiện
khó.

       Bệnh tiểu tiện khó trái ngược với bệnh đái tháo
nhạt, là tiểu ra quá nhiều nước. Chứng đái tháo nhạt, Đông y cho rằng do thận
hư, vì vậy xem Thái âm, Thiên đồng. Nhưng cũng do “thùy thể” sau não phân tiết
thất thường mà gây ra, thì chọn xem Thái dương hóa Kị, hội Cự môn gia sát tinh
làm ứng nghiệm.

       Các bệnh về tính dục liên quan đến hệ
tiết niệu, đều xem Tham lang, Liêm trinh, lấy trường hợp gặp các sao Đào Hoa,
Văn Xương, Văn Khúc, Hóa Kị làm ứng nghiệm. Thời kỳ ứng nghiệm, có khi kéo dài
đến lúc gặp niên hạn Thiên Đồng thủ cung tật ách mới phát tác. Hoặc ngược lại,
cung Tật Ách của nguyên cục gặp Thiên đồng, đến niên hạn “Tham lang – Liêm
trinh” thủ cung tật ách mới phát tác. Hai nhóm tinh hệ cũng có sự phân biệt,
trường hợp trước là do thể chất dễ nhiễm bệnh tính dục, trường hợp sau là do thể
chất dễ nhiễm bệnh hệ tiết niệu.

       Cho nên, các bệnh như
thoát vị bẹn, sa đì, viêm tinh hoàn, lấy tinh hệ “Liêm trinh – Thiên tướng” làm
điềm tượng. Nhóm tinh hệ này, dù có gặp sao Lộc, cũng không thể xem là tránh
được nguy cơ mắc bệnh tiểu đường. Nếu nguyên cục là “Liêm trinh – Thiên tướng”,
mà Liêm trinh hóa Lộc (có lúc còn hội Lộc tồn), thường ở Đại hạn Liêm trinh lại
gặp Lưu lộc thì phát bệnh. Cho nên Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Khoa không đại biểu
cho việc tránh mắc bệnh, đây là một ví dụ. 

       Nhóm 6: Bệnh ở ngũ quan

       Bệnh ở ngũ quan
rất phức tạp, thông thường là do bệnh ở nội tạng phát bệnh mà dẫn đến. Đẩu Số
nghiên cứu về bệnh tật, cổ nhân để lại tư liệu chứng nghiệm không nhiều. Vương
Đình Chi tuy có nỗ lực nghiên cứu bổ xung, nhưng do thời gian và kiến thức y học
đều có giới hạn, nên tư liệu chứng nghiệm về bệnh tật ở ngũ quan càng không được
đầy đủ.

       Đông y giải thích bệnh tật ở ngũ quan chỉ căn cứ
lý luận âm dương ngũ hành và lý thuyết tạng phủ, thực ra không đủ để từ đó, luận
đoán ra nhiều bệnh tật ở ngũ quan. Ví dụ như mắt bị cườm nước (glaucoma) rất khó tìm ra tinh hệ chính xác tuyệt đối. Vương Đình
Chi kể, ông từng tình cờ gặp một trường hợp Thái dương lạc hãm hóa Kị mà mắt bị
bệnh cườm nước (glaucoma), nhưng trước đó Ông cũng từng gặp một
người bị mù mắt vì bệnh cườm nước, mà cung Tai Ách lại là Thiên Lương. Vì vậy,
Vương Đình Chi đề nghị xem Thái Dương, Thiên Lương, Cự Môn, là điềm tượng chủ
các bệnh về mắt, để bạn đọc tham khảo.

       Viêm giác mạc mắt
là Thái Dương gặp sát tinh, hoặc Thái Dương đồng cung với Hỏa tinh. Chứng bệnh
này lấy trường hợp Thái dương hóa Quyền hay hóa Lộc làm ứng nghiệm. Nếu gặp các
sao Kình dương, Thiên hình, Thiên sứ, mà Thái dương hóa làm sao Kị, sẽ chủ về
phẫu thuật ở bộ phận mắt, nhẹ thì viêm thần kinh thị
giác.

       Mắt mù do bệnh tiểu đường gây ra, thì xem tinh hệ
“Liêm trinh – Thiên tướng”. Nếu do nguyên nhân khác gây ra, vẫn xem Thái dương,
hoặc tinh hệ “Thiên đồng – Thái âm”.

       “Thiên đồng – Thái
âm” chủ về Thận, gây ra bệnh mắt là do tạng thận gây ra. Vì vậy, thận khí hư,
thường sẽ bị chứng ruồi bay trước mắt, cũng lấy nhóm tinh hệ này làm ứng
nghiệm

       Bệnh tai, các nhà Đẩu Số cổ đại chỉ xem Thất Sát,
nếu có Long Trì đồng độ, sẽ chủ về tai điếc.

       Nếu do thận
hư gây bệnh ở lỗ tai, tai ù, thì có thể dùng tinh hệ chủ về bệnh thận để luận
đoán, như tinh hệ Thái Âm.

       Nhưng nếu là bệnh viêm tai
giữa, theo chứng nghiệm của Vương Đình Chi, thì tinh hệ “Vũ khúc – Thiên tướng”
có Hỏa tinh hội hoặc vây chiếu, thường chủ về chứng bệnh
này.

       Viêm họng, lấy Cự Môn làm ứng nghiệm, và cũng xem
Thiên đồng, Thái âm.

       Khoang miệng thường bị lở, miệng
lưỡi bị rát bỏng, thì lấy Cự môn hóa Kị làm điềm tượng.

      
Đau răng thì phải xem Phá Quân, Vũ Khúc, sâu răng thì xem Thiên tướng có bị sát
tinh giáp cung hoặc hội chiếu hay không.

       Chảy máu mũi
thì xem Liêm Trinh, không cần hóa Kị, gặp sát tinh và Âm Sát, là chủ về bị chảy
máu mũi.

       Mũi dị ứng và viêm mũi, thì lấy tinh hệ “Liêm
trinh – Thất sát”, và tinh hệ “Liêm trinh – Phá quân” có kèm sát tinh làm điềm
tượng. 

       Nhóm 7: Bệnh phụ khoa

       Các sao về bệnh phụ
khoa, cổ nhân tương truyền là Liêm Trinh và Tham Lang, các sao khác như Tử vi,
tinh hệ “Thái âm – Thiên cơ”, Thiên đồng, Thiên tướng, Phá quân, cũng chủ về đau
bụng kinh, huyết trắng, nhưng ý nghĩa trùng lặp, phân biệt giới hạn không rõ,
cho nên lúc luận đoán hơi chung chung.

       Luận đoán đặc
biệt như Thiên Lương đồng cung với Hỏa tinh, Linh tinh, chủ về bệnh ung thư vú,
mức độ chính xác rất cao. Theo chứng nghiệm của Vương Đình Chi, nếu Tham Lang
hóa Kị xung hội Liêm trinh hóa Kị, hoặc Vũ khúc hóa Kị, đồng thời còn gặp Kình
Đà xung chiếu, thì chủ về tử cung hoặc ống dẫn trứng có khối u, độ chính xác
cũng cao. Nhưng đáng tiếc, những chứng nghiệm như vậy không nhiều, vẫn còn chờ
nghiên cứu thêm. Hiện chỉ thuật một số nguyên tắc rất có giới
hạn.

       Bệnh phụ khoa thường gặp nhất là đau bụng kinh. Mếu
không kèm bị viêm thì có thể là Thiên Tướng, có lúc là tinh hệ “Tử vi – Thiên
tướng”. Nếu có kèm bị viêm là Tham Lang. Nếu ở hai cung Tị hoặc Ngọ mà gặp sát
tinh, thì chủ về lệch tử cung, nội mạc tử cung bị dị dạng bẩm
sinh.

       Nếu kinh nguyệt không điều hòa và ra nhiều máu,
thì xem Thiên Đồng, hoặc tinh hệ “Thiên cơ – Thái âm”. Trường hợp tính chất của
Thiên Đồng là ôn hòa, thì không kèm bệnh biến, gọi là “xuất huyết có tính cơ
năng”. Nếu tinh hệ “Thiên cơ – Thái âm” có sát tinh, sẽ chủ về bệnh biến, nếu
nghiêm trọng có thể là sa tử cung.

       Bệnh sa tử cung cũng
gặp ở trường hợp Thiên Tướng thủ cung tật ách, gặp các sao Đào Hoa và Thiên Hư,
Địa không, Địa kiếp, phần nhiều là do sau khi sinh cơ thể hư nhược gây
ra.

       Nếu viêm nội mạc tử cung, viêm ống dẫn trứng, thì
lấy Tử vi độc tọa ở hai cung Tý và Ngọ làm điềm tượng; nếu có Kình dương đồng
độ, lại gặp Hàm Trì, Đại Hao, nhất là gặp Hỏa tinh, Linh tinh, thì càng chính
xác.

       Hai sao Liêm Trinh, Thiên Cơ chủ về bệnh kín của
phụ nữ, phần nhiều là kinh nguyệt kho ít, hoặc huyết trắng (bạch đới), còn kèm
bị viêm âm đạo.

       Nhưng nếu đã gặp tinh hệ chủ về bị viêm,
mà đến niên hạn có sao Thiên Tướng, Đà la, Âm sát, Thiên hình, Thiên nguyệt,
Thiên đức thủ cung tật ách, thường thường có thể phát triển thành khối u, hoặc
ung thư. Có lúc đến niên hạn Vũ khúc hóa Kị thì cung tật ách cũng chủ về ứng
nghiệm.

       Phá Quân thủ cung tật ách, thì bệnh tình rất là
nghiêm trọng, nhất là hội hợp với Vũ khúc hóa thành sao Kị, lại gặp Hỏa tinh và
Linh tinh giáp cung, tạp diệu lại gặp các sao hư, hao, hình, nguyệt, phần nhiều
chủ về ung thư cổ tử cung, nhưng hiện tượng bề ngoài chỉ là ra huyết
trắng.

       Nếu là viêm âm đạo do nhiễm trùng, thì cần chú ý
Phỉ Liêm

       Viêm tuyến vú thì xem Thiên lương, cần chú ý
xem có Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ hay không, có thì bệnh tình có thể phát triển
thành ác tính.

       Phụ nữ mang thai thì lấy trường hợp cung
Mệnh, cung Phúc đức, hoặc cung Phu thê, gặp Hồng loan, Thiên hỷ làm nguyên tắc
luận đoán. Nếu lưu niên gặp Lưu Xương, Lưu Khúc hội chiếu, cung Tử Tức của Lưu
niên cát lợi, thì có thể mẹ tròn con vuông. Nhưng nếu cung Tử Nữ của nguyên cục
gặp Thiên đồng, Thái âm, nhưng một sao hóa làm sao Kị, lại gặp sao Không, và các
sao Hoa cái, Âm sát, Thiên sứ, Thiên hư, Đại hao, thì có thể không sinh đẻ. Lúc
này cung Tật ách cũng có điềm tượng, có thể hiển thị bệnh biến về tính dục bẩm
sinh, hoặc bệnh biến về tính dục hậu thiên. Hai tinh hệ Tham lang và “Thiên cơ –
Thái âm” ở hai cung Tị hoặc Ngọ là điềm tượng dị dạng bẩm sinh. Có thể bổ cứu là
Thiên Tướng, nhưng nếu Thiên tướng là cách “Hình Kị giáp ấn“, gặp Hỏa
tinh và Linh tinh giáp cung, hay Kình dương và Đà la giáp cung, thì cũng có thể
bị dị dạng bẩm sinh. 

       Bảy nhóm bệnh
chứng thuật ở trên chưa được toàn diện, còn rất nhiều chứng bệnh thiếu chứng
nghiệm, Vương Đình Chi kể, ông từng gặp một trường hợp, đoán là bị sa tử cung,
không sinh nở được, nhưng rốt cuộc lại là chứng bệnh rất hiếm gặp, gọi là chứng
“thạch nữ”, bà ta kết hôn hơn 10 năm mà vẫn không thể gần gũi với chồng. Những
căn bệnh hiếm gặp, cổ nhân không để lại nguyên tắc luận đoán, ứng nghiệm như thế
nào phải do người đời nay tìm tòi nghiên cứu.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

0585662660
Liên hệ