Sao Thiên hình
Tử Vi Đẩu Số toàn thư
Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Thiên hình thuộc dương
hỏa, hóa khí là cô khắc, chủ về hình thương, kiện tụng, cô độc. Sao
Thiên hình nhập miếu sẽ trở thành thần Thiên hỷ, có tài cán quyền uy, chưởng
quản binh quyền. Nếu gặp sao Thái dương chủ về phát võ nghiệp. Gặp Văn xương,
Văn khúc, chủ về nắm quyền trấn giữ biên cương.
Sao Thiên hình
nhập vào cung Mệnh cung Thân, chủ về tướng mạo anh tuấn, uy vũ bất khuất, có tài
cán, nhưng cá tính kiên ngạo cô độc khó gần, có tư tưởng và quan niệm giá trị
độc đáo khác người, không có duyên với người thân, ưa thích đoán mệnh hoặc tự
nghiên cứu mệnh lý, có duyên với Thần, Phật. Chỉ khi nhập miếu tại bốn cung Dần,
Mão, Dậu, Tuất, lại gặp thêm Cát tinh, mới chủ về cát lợi, và có thể nắm quyền
lực lớn. Tại sáu cung Tuất, Hợi, Tý, Thìn, Tị, Ngọ là bình thường. Tại hai cung
Sửu và Mùi là lạc hãm. Nếu hai hạn gặp phải, chủ về xuất gia, kiện tụng, mất mát
phá sản. Thiên hình có tính “đột ngột, bất ngờ” ví như hỏa hoạn, cần đặc biệt đề
phòng tai họa do Thiên hình gây ra.
Sao Thiên hình nhập mệnh, chủ
về tích cực, biết nắm bắt trọng điểm, thiên ác phân minh, tuân thủ pháp luật và
chế độ, anh hoa phát tiết ra ngoài, nhưng có nhược điểm về ngôn ngữ và hành vi,
dễ bị người khác hiểu lầm.
Sao Thiên hình là sao chủ về “nợ nần”,
nếu nhập vào các cung Mệnh, Thân, Tài, Quan, thường có hiện tượng “tiền của đến
rồi lại đi”, mà thành ra tiền của quay vòng.
Khi Thiên hình nhập
miếu, ưa gặp sao Thái dương, ngoài ra cũng hợp với các sao Tử vi, Thiên tướng,
Thiên lương, Tham lang, Cự môn. Nếu theo những ngành nghê pháp luật, y khoa,
quân đội, cảnh sát, tôn giáo, chủ về sẽ có thành tựu. Thiên hình tốt nhất nên
gặp Văn xương, Văn khúc tại cung vượng, sẽ phát cả về nghiệp văn và nghiệp võ,
chủ về thành danh, có thể trở thành quan tòa hoặc thầy thuốc nổi tiếng. Nếu
Thiên hình đồng cung với sao Kình dương, lại gặp sát tinh, Hóa Kị, khó tránh
khỏi tai họa mà tổn thương đến thân.
Trung châu Tam
hợp phái – Vương Đình Chi
Thiên hình là sao của Trung Thiên, thuộc dương hỏa, chủ về cô độc và hình
khắc, lại còn chủ về hình phạt. Cát thì chủ về tự kiềm chế. Ưa các sao cát, ưa
nhất là Văn xương, Văn khúc. Ưa ở các cung Dần Ngọ Tuất, Thân Tý Thìn. Kị các
sao hung, kị nhất là ở hai cung Sửu và Mùi.
Thiên hình thuộc dương hỏa, Thiên diêu thuộc âm thủy, Thiên hình chủ
về tự kềm chế, Thiên diêu chủ về phóng túng, là cặp sao đôi có bản
chất trái ngược nhau.
Thiên hình ưa Văn xương, Văn khúc kết thành đôi hội chiếu hoặc đồng
độ, chủ về tự kềm chế mà không có sát khí. Nếu Thiên hình ở các
cung Dần, Mão, Dậu, Tuất là nhạp miếu, gặp Văn xương, Văn khúc, cổ
nhân gọi là “chấp chưởng biên cương“, nhưng lại không phải là võ
tướng, phần nhiều chủ về chức võ mà nghiệp văn, tương tự như ngành
Hải quan ngày nay.
Thiên hình hội với
Thái dương và Cự môn đồng độ, là sao “chấp chưởng hình
pháp“.
Thiên hình hội hợp với
Thái dương Thiên lương đồng độ, gặp thêm các sao Sát Kị, lại chủ về
phạm pháp kiện tụng, mà không chủ về “chấp chưởng
hình pháp“, không giống trường hợp hội hợp với Thái
dương Cự môn.
Tử vi hội Tham lang ở
hai cung Tý hoặc Ngọ, hoặc đồng độ với Tham lang ở Mão hoặc Dậu, ưa
gặp Thiên hình, không phải là “đào hoa phạm chủ”, mà chủ về có thể
tự kềm chế.
Vũ khúc Thất sát đồng
độ cùng với Kình dương, lại có Thiên hình cùng bay đến, cổ nhân nói
“dùng dụng cụ sắc bén để kiếm tiền, như thợ cắt tóc, đồ tể“,
thời hiện đại cũng có thể là bác sỹ ngoại khoa, nha
sỹ.
Thiên hình ở tại Sửu
hoặc Mùi, có sắc thái “cô độc và
hình khắc“, bất lợi đối với lục thân. Cần phải xem
xét kỹ các cung Lục thân mà định.
Cung Tật ách có sao Thiên hình, lại có các sao Sát, Kị xung hội,
đề phòng tuổi trẻ tàn tật, hoặc sinh ra đã bị dị tật. Cung Tật ách
của lưu niên hoặc đại vận mà gặp Thiên hình, bị lưu Kình xung hội,
chủ về phải phẫu thuật.
Nhất diệp tri
thu – Phan Tử Ngư
Sao Thiên hình thuộc dương hỏa, chủ về hình yểu, ở miếu địa còn có tên là
Thiên hỷ thần, có quyền uy. Trong Đẩu Số chủ về y
dươc.
Tính cách của sao Thiên
hình là hơi cô độc, cao ngạo, có tài năng, phần nhiều vất vả, bị hình khắc, nhập
mệnh thì dễ bị thương tật, kiện tụng. Nhập cung Tật ách, thì lúc còn bé coi
chừng mắc bệnh bại liệt, di chứng sau viêm não. Nếu vượng địa chủ về nắm đại
quyền, gặp Thá dương chủ về làm quan võ, đồng cung với Văn khúc thì văn võ song
toàn, thành danh, hiển đạt ở biên cương. Tối kỵ đồng cung với Thiên khốc trấn
thủ tại cung mệnh, vì không tránh khỏi nghèo đói, tai họa, bệnh tật, chỉ nên làm
sư tăng đạo sỹ, không có tình cảm đối với lục thân.
Sao Thiên hình coi bốn cung Dần, Mão, Dậu, Tuất là nhập miếu, nếu ở cung
khác có chính tinh miếu vượng cũng có thể thừa vượng, nhưng nếu gặp Kị Sát xung
phá, hoặc chính tinh hãm địa, thì chủ về cô khắc, bất lợi, bệnh
tật.
Sao Thiên hình nhập miếu,
hoặc thừa vượng, mà gặp Cự môn, Thiên lương, hoặc Thiên tướng, thì phần nhiều
chủ về thành danh ở giới tư pháp, hoặc thành danh ở một môn học thuật nào
đó.
Nam Bắc phái
đoán mệnh – Chu Văn Sơn
Sao Thiên hình nhập miếu biểu thị có quyền uy (Dần, Mão, Dậu, Tuất là miếu
địa. Thân, Hợi, Tý, Thìn, Tị, Ngọ là bình hòa. Sửu Mùi là hãm địa). Mặt vuông,
vàng mà hơi đỏ hoặc trắng, hoặc cao hoặc thấp mà hơi béo. Về cá tính thì cô độc,
cao ngạo. Có tài cán, cuộc đời nhiều vất vả, tính cách cương nghị, không ác độc.
Tỳ khí không tốt.
Sao Thiên hình nhập mệnh
khiến tay chân bị hình thương, ở hãm địa thì xảy ra tai họa phải phẫu thuật.
Thiên hình chủ về việc quan sai, nếu gặp Liêm trinh, Cự môn lạc hãm, thì xảy ra
kiện tụng, hoặc việc liên quan đến pháp luật. Nếu miếu vượng, có thể nắm đại
quyền hình sát, như làm quan xét xử. Chính tinh lạc hãm Hóa Kị, mà lại gặp Thiên
hình, thì chủ về việc liên quan đến pháp luật, có tai họa tù ngục, cần phải xem
tình hình các sao khác. Nếu có lưu niên Bạch hổ đến hay xung chiếu, lại thêm Hỏa
tinh Linh tinh hội lại, thì năm đó chắc chắn khó thoát khỏi họa lao
ngục.
Năm Giáp có Thiên hình,
đầu năm nếu không bị thương thì cuối năm sẽ cô độc, dễ theo đạo Phật.